Thực trạng thực hiện về tạm giữ tang vật,phương tiện, giấy phép hành nghề

Rate this post

 Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Thực trạng thực hiện về tạm giữ tang vật,phương tiện, giấy phép hành nghề dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp về Thực trạng thực hiện về tạm giữ tang vật,phương tiện, giấy phép hành nghề được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


Table of Contents

ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO THỰC TẬP: VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP, CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ THEO THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

Lời Cam Đoan.

Người Cam Đoan.

Mục Lục.

Danh Mục Các Bảng.

Danh Mục Các Biểu Đồ.

Lời Mở Đầu.

  1. Tính cấp thiết của đề tài
  2. Tình hình nghiên cứu đề tài
  3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
  4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
  5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
  6. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
  7. Kết cấu của luận văn:

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP, CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ THEO THỦ TỤC HÀNH CHÍNH..

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

1.1.1. Khái niệm..

1.1.2. Đặc điểm của việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính:

1.1.3. Về đối tượngbị áp dụngviệc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

1.1.4. Nguyên tắc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

1.2. Thẩm quyềnvề tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

1.2.1. Thẩm quyền.

1.2.2. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp phường (xã):

1.2.3. Thời hạn của trường hợp tạm giữ tang vật phương tiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính:

1.3. Trình tự thủ tục về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

1.3.1. Các bước tiến hành thực hiện việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành trong lĩnh vực quản lý trật tự đô thị.

1.3.2. Thủ tục của trường hợp tạm giữ tang vật phương tiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính:

1.3.3. Các bước tiến hành thực hiện việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành trong lĩnh vực quản lý trật tự đô thị:

1.3.4. Về thu, nộp, quản lý, sử dụng phí lưu giữ, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ:

1.4. Giải quyết khiếu nại tố cáo về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

Tiểu kết chương 1.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP, CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ THEO THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH..

2.1. Tổng quan về quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây:

2.2.2. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính:

2.2.3. Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây

2.3. Ưu điểm, hạn chế bất cập việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành.

2.3.1. Ưu điểm.

2.3.2. Hạn chế.

2.4. Nguyên nhân, hạn chế của việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

2.4.1. Nguyên nhân khách quan.

2.4.2. Nguyên nhân chủ quan.

Tiểu kết chương 2.

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỀ TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP, CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ THEO THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH..

3.1. Tiếp tục tuyên truyền pháp luật về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

3.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhà nước.

3.3. Công khai, minh bạch các thủ tục hành chính về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành.

3.4. Các giải pháp cụ thể khác.

Tiểu kết chương 3.

KẾT LUẬN..

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..


Xem Thêm ==> Cơ sở lý luận về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép hành nghề

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ THEO THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

2.1. Tổng quan về Quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh

Tân Bình là một quận nội thành thuộc thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận Tân Bình có địa lý bằng phẳng, cao trung bình là 4–5 m, cao nhất là khu sân bay khoảng 8 – 9 m, trên địa bàn còn có kênh rạch và còn đất nông nghiệp. Về kinh tế: Quận Tân Bình là một trong những quận có nền kinh tế mạnh và tích cực. Nó có nhiều xu hướng phát triển cao và luôn đáp ứng đúng nhu cầu phát triển của các thành phần kinh tế cần thiết. Mỗi năm dịch vụ và giá trị sản xuất công nghiệp của quận đạt mức tăng trưởng 29,68%, vượt chỉ tiêu so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận đề xuất từ 20-25%. Tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp lớn, nhỏ và tư nhân đặt tới 5.587 tỷ đồng. Từ nhiều năm qua, quận Tân Bình đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư lớn tham gia xây dựng các trung tâm thương mại và khu vui chơi lớn như Parkson Plaza, Trung tâm Thương mại – Văn hóa Lạc Hồng…Quận còn quan tâm đến một số hoạt động trang hoàng, chỉnh tu lại quận như nâng cấp các vỉa hè và trồng cây xanh. Quận còn thúc đẩy mạnh các dịch vụ du lịch để thu hút nhiều khác du lịch trong và ngoài nước. Đồng thời quận kiên quyết đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây

2.2.1. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây:

Trên địa bàn cả nước, thống kê có gần 75 nghìn phương tiện vi phạm tồn đọng. Đây là con số được nêu trong báo cáo của Bộ Tư pháp về tình hình và kết quả thực hiện thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Trương Hoà Bình về xử lý phương tiện giao thông đường bộ vi phạm hành chính.

Trước thực trạng quá tải, ngày 25/6/2018, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 5967/VPCP-PL thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, trong đó giao Bộ Tư pháp thành lập Đoàn công tác liên ngành, bao gồm lãnh đạo các đơn vị chức năng có liên quan của Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ để trực tiếp đôn đốc, kiểm tra, nắm tình hình và kết quả thực hiện cụ thể tại các địa phương [28-30

Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thành lập Đoàn công tác liên ngành tiến hành việc kiểm tra, nắm bắt tình hình và kết quả thực hiện công tác xử lý phương tiện giao thông đường bộ vi phạm hành chính tại một số địa phương là TP Hà Nội, Đà Nẵng và tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và kết quả kiểm tra trực tiếp tại một số địa phương, Bộ Tư pháp đã có Báo cáo số 267/BC-BTP gửi Thủ tướng Chính phủ [28-30].

Theo báo cáo, tổng số phương tiện đang được quản lý tại các điểm trông giữ phương tiện vi phạm trong cả nước là 252.671 phương tiện. Trong đó, có 212.242 phương tiện đã quá thời hạn tạm giữ; số phương tiện quá thời hạn tạm giữ đủ điều kiện để trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý và sử dụng hợp pháp là: 44.072 phương tiện; số phương tiện quá thời hạn tạm giữ bị tịch thu sung công là: 91.447 phương tiện. Hiện còn gần 75 nghìn phương tiện quá thời hạn tạm giữ bị tồn đọng tại các điểm trông giữ, chưa được xử lý. Đồng thời, báo cáo cũng phân tích những khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện, đưa ra đề xuất, kiến nghị liên quan đến công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện và đặc biệt là việc hoàn thiện nhiều quy định có liên quan của Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC), Nghị định số 115/2013/NĐ-CP, Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, Thông tư số 02/2016/TT-BCA của Bộ Công an…[26].

Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian thành phố đồng loạt ra quân “Quyết liệt xử lý lấn chiếm vỉa hè, lòng đường”, tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường có giảm, thế nhưng hiện nay tình trạng lấn chiếm, tái lấn chiếm vỉa hè, lòng đường lại diễn ra với mức độ nghiêm trọng hơn trước, ở hầu khắp các tuyến đường trên địa bàn thành phố, mà đặc biệt là tại các “phố nhậu”…Chiều đến, tại các hàng quán chạy dọc hai bên đường Phạm Văn Đồng (đoạn qua quận Bình Thạnh, Gò Vấp), nhân viên bày biện bàn ghế, trưng ra các bảng hiệu trên vỉa hè. Các quán nối nhau san sát, tạo thành “phố ăn nhậu” rất nhộn nhịp hàng đêm.

2.2.2. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính:

Số vụ vi phạm hành chính đã phát hiện là: 36.789.227 vụ việc, tổng số vụ việc đã xử phạt là 28.493.927 vụ việc(chiếm 77.45% số vụ vi phạm), số liệu cụ thể qua các năm được thể hiện cụ thể qua bảng sau:[28-30]

Bảng 2.1. Số vụ vi phạm hành chính trên địa bàn quận Tân Bình

Năm Số vụ đã phát hiện Số vụ đã xử phạt Số QĐ đã ban hành Số QĐ đã thi hành Số QĐ chưa thi hành xong Số QĐ bị cưỡng chế thi hành Số QĐ bị khiếu nại, khởi kiện Tiền thu được từ bán thanh lý TV, PT bị tịch thu Tiền phạt thu được
2014 13.473.118 8.893.639 8.893.639 6.615.982 466270 6.407 750 383.744281.055 11.883.944.685.169
2015 9.530382 6347.778 6.532.810 6214.575 318235 3.172 1.776 533.025.143.498 8.515.914.534.928
2016 9.845.031 9.526.991 9.566.765 9200.951 365.814 4.002 778 532.142.482.026 12.674.747.484.808
2017 (6 tháng) 3.940.696 3.725.519 3.902.620 3.577314 352306 1328 293 209.800.185.018 5.468.823.353.797
Tổng 36.789227 28.493.927 28.895.834 25.608.822 1.502.625 14.909 3.597 1.658.712.091.597 38.543.430.058.702

Điều này thể hiện qua biểu đồ sau

Thông qua biểu đồ trên cho thấy việc tăng cường xử lý và quan tâm trong việc thực hiện áp dụng xử lý VPHC đã được các cấp, các ngành thực hiện nghiêm túc, bảo đảm đúng thời hạn, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để các hành vi phạm tội, nên có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Thực tiễn cho thấy công tác xử phạt vi phạm hành chính đã đạt được những kết quả cao; góp phần ổn định tình hình chính trị; ngăn chặn, phòng ngừa và dần đẩy lùi hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó, từng bước đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của Đảng và Nhà nước về phòng, chống hành vi vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

2.2.3. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây

* Về thẩm quyền thực hiện

* Về chủ trương, đường lối của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh trong tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính. Khẳng định vai trò quan trọng của công tác xử phạt vi phạm hành chính nói chung và tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính nói riêng trên địa bàn quận Tân Bình trên cơ sở tuân thủ và đưa vào thi hành các văn bản pháp luật về công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính và tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính nói riêng cũng như các quy định của pháp luật về vấn đề này. Để cụ thể hoá cho công tác đấu tranh xử phạt vi phạm hành chính nói chung trên địa bàn thành phố đạt hiệu quả thì việc ban hành các chủ trương đường lối về vấn đề này có thể kể đến một số văn bản như sau:[28-30]

Ủy ban nhân dân thành phố tham mưu Thành ủy thành phố ban hành Chỉ thị số về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống và tăng cường QLN về xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố trong tình hình mới. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình về thực hiện Kết luận số 05-KL/TW của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị; Kế hoạch về việc triển khai thực hiện Quyết định số 199/QĐ-TTg ngày 14 tháng 02 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực hiện Kết luận số 05-KL/TW ngày 15 tháng 7 năm 2016 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trong tình hình mới và Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước nói chung. Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc thành phố về thực hiện công tác phòng, chống tội phạm năm 2017; Kế hoạch về khảo sát tình hình tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội, cố ý gây thương tích do các băng nhóm thanh niên gây ra; Kế hoạch số 13/KH-BCĐ ngày 09 tháng 5 tháng 2017 về triển khai thực hiện Đề án hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người năm 2017 của Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2016 – 2020. Ngoài ra, đối với tội phạm ma túy thì các cơ quan NN trên địa bàn thành phố đã nhận được sự chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân thành phố hỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng Đề án phòng, chống ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Kế hoạch thực hiện Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 07 tháng 4 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020, Kế hoạch số 3316/KH-UBND ngày 31 tháng 5 năm 2017 của UBND TPHCM về Triển khai thực hiện “Tháng hành động phòng, chống ma túy” “Ngày Quốc tế phòng, chống ma túy” và “Ngày toàn dân phòng, chống ma túy 26 tháng 6” – năm 2017. Đặc biệt, để cho công tác xử phạt vi phạm hành chính nói chung và tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính nói riêng đạt hiệu quả cao thì UBND các phường trên địa bàn quận Tân Bình đã phối hợp, chỉ đạo tổ chức thanh tra chuyên ngành việc chấp hành các quy định của pháp luật. [25]

Cũng trong quá trình khảo sát thì số liệu cho rằng Cấp ủy có ban hành chủ trương trong việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính hay không được thể hiện thông qua biểu đồ sau:

Bảng 2.2. KHẢO SÁT VỀ VIỆC BAN HÀNH CHỦ TRƯƠNG TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ

Phương án trả lời Số phiếu Tỷ lệ
1. Có 226 75,34 %
2. Có nhưng chưa thường xuyên 55 18,33 %
3. Không 18 6 %
4. Ý kiến khác 1 0,33 %
Phương án trả lời Số phiếu Tỷ lệ

Biểu đồ 2.2. KHẢO SÁT VỀ VIỆC BAN HÀNH CHỦ TRƯƠNG TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, GIẤY PHÉP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ

Như vậy, nhìn chung việc ban hành chủ trương, chính sách đối với vấn đề này là vô cùng quan trọng và hiệu quả. Thông qua việc xác định thẩm quyền trong hoạt động về xử phạt vi phạm hành chính về tạm giữ tang vật, phương tiện, chứng chỉ hành nghề đã tạo nên sự thống nhất về ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; tăng cường đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, các biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo các đường lối, chủ trương của Đảng vào quá trình công tác xử phạt vi phạm hành chính.[28-30].

* Về thủ tục tiến hành

Báo cáo sơ kết 02 năm (2017-2018) thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy và Chỉ thị số 01-CT/QU của Ban Thường vụ Quận ủy về tăng cường công tác quản lý trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Qua 2 năm (2017-2018), trật tự lòng, lề đường trên các tuyến trọng điểm của quận và 15 phường đã có chuyển biến tích cực. Nhìn chung trên 07 tuyến đường điểm của quận đăng ký với thành phố (kể cả các tuyến điểm đã bàn giao cho phường quản lý năm 2017) và trên các tuyến đường, khu vực phường đăng ký chuyển hóa, các tuyến đường khác thuộc địa bàn quận, tình hình vi phạm có kéo giảm, do các cấp ủy Đảng nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý, đảm bảo trật tự lòng, lề đường; lực lượng liên ngành các phường có quan tâm, chú trọng hơn đối với công tác; ý thức người dân tự giác hơn trong việc thực hiện quy định pháp luật về công tác trật tự lòng, lề đường.[28-30]

Về tình hình xử lý vi phạm hành chính: Các đơn vị, ban, ngành quận (chủ lực là Đội Quản lý trật tự đô thị, Công an quận) tiếp tục duy trì phân công lực lượng tham gia Tổ công tác đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ theo kế hoạch. Tổ công tác liên ngành quận phối hợp tổ chức ra quân 840 lượt, trực tiếp lập biên bản, ban hành nhiều quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thu giữ nhiều tang vật vi phạm (1362 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 2.451.650.000 đồng). Phối hợp với Ban An toàn giao thông, Ủy ban nhân dân 15 phường tăng cường kiểm tra xử lý các điểm nóng về trật tự lòng, lề đường trên tuyến và khu vực khác.

Xem Thêm ==> Viết chuyên đề thực tập giá rẻ 

Đảng ủy, ủy ban nhân dân 15 phường đã tiếp tục chỉ đạo Tổ công tác trật tự đô thị phường tổ chức ra quân kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm (ít nhất 03 lần/tuần) trên các tuyến đường và khu vực trọng điểm đã xác định, lập biên bản, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và thu giữ nhiều tang vật. Qua 2 năm triển khai thực hiện, ủy ban nhân dân 15 phường đã tổ chức ra quân 7.884 lượt, ban hành 3.416 quyết định xử phạt vi phạm hành chính, với tổng số tiền 5.949.763.000 đồng; 6.345 quyết định xử phạt thủ tục đơn giản, phạt hành vi phương tiện giao thông dừng, đỗ sai quy định,… với tổng số tiền phạt là 1.070.000.000 đồng. (trích báo cáo sơ sơ kết 02 năm (2017-2018) thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy và Chỉ thị số 01-CT/QU của Ban Thường vụ Quận ủy về tăng cường công tác quản lý trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh).[31]

Trước tình trạng lấn chiếm bát nháo ở nhiều tuyến đường trên địa bàn, hầu hết các hộ dân thuộc diện cận nghèo, diện tích nhà nhỏ, nên lấn chiếm vỉa hè để xe, đồ dùng gia đình. Phường đã nhiều lần vận động, nhắc nhở người dân không buôn bán và không để xe lấn chiếm lòng lề đường, nhưng thực sự rất khó”.

Trong khi đó, giải thích về việc vỉa hè, lòng đường nhiều nơi trên địa bàn bị tái lấn chiếm, ông Trần Nhựt Thái, Chủ tịch UBND phường 12 quận Tân Bình, phân trần rằng địa phương thường xuyên chấn chỉnh trật tự lòng lề đường, tuy nhiên, do địa bàn phường rộng, mật độ dân cư đông, lực lượng mỏng… nên phường chỉ tập trung thực hiện được ở một số tuyến trọng điểm chứ không làm tràn lan được.

*Về xử lý tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính: Hiện nay khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý phương tiện giao thông đường bộ vi phạm hành chính còn lúng túng vì thiếu quy định, việc xác minh phương tiện tồn đọng mất rất nhiều thời gian. Trong khi đó, một số hành vi vi phạm có mức xử phạt cao, phương tiện cũ có giá trị thấp nên người vi phạm không đến xử lý… Từ đó dẫn đến thực trạng quá tải của các bãi trông giữ phương tiện vi phạm, gây lãng phí lớn đối với tài sản của xã hội. 

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay thì công tác tuân thủ trình tự thủ tục xử lý vi phạm hành chính rất được quan tâm về mọi mặt. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cũng như các nội dung có liên quan được tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, sâu rộng trong các cán bộ, đảng viên được học nói chung trong thời gian vừa qua. Việc triển khai các chủ trương nói chung là điều kiện quan trọng trong quá trình thực hiện của các cơ quan chính quyền địa phương nói chung. Cùng với việc triển khai các công tác nhằm định hướng phát triển cho hoạt động tuân thủ trình tự thủ tục xử lý vi phạm hành chính về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề nói chung thì quận Tân Bình cũng nhấn mạnh việc áp dụng các hình thức tuân thủ trình tự thủ tục xử lý vi phạm hành chính nói chung nhằm đáp ứng với yêu cầu trong công tác xử phạt vi phạm hành chính gắn chặt với sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Thành ủy, UBND thành phố Hồ Chí Minh, sự quan tâm phối hợp, tạo điều kiện của các sở, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền các địa phương. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành ủy và chính quyền địa phương trong công tác này về cơ bản đã đảm bảo đúng quy định pháp luật, đảm bảo thực hiện đúng mục đích, ý nghĩa của quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nhằm đảm bảo hiệu quả cao trong quá trình thực hiện [28-30].

Tác giả đã tiến hành một cuộc khảo sát đối với trưng cầu ý kiến của vấn đề này, thông qua hoạt động khảo sát đã có một số kết quả như sau:

Bảng 2.3. KHẢO SÁT VỀ VIỆC THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC VIỆC THỰC HIỆN QUY TRÌNH TRONG TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ

Tổng số Quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm Ý kiến khác
100 54 43 1 2

Biểu 2.3. BIỂU ĐỒ KHẢO SÁT VỀ VIỆC THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC VIỆC THỰC HIỆN QUY TRÌNH TRONG TẠM GIỮ TANG VẬT, PHƯƠNG TIỆN, CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ

 Qua số liệu và biểu đồ tác giả nhận thấy đa phần sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với việc triển khai thực hiện tuân thủ hình thức trình tự thủ tục xử lý vi phạm hành chính luôn được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, trong quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế nhất định cần được nghiên cứu đổi mới để đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ cơ sở gắn với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong thực tế.

       * Vấn đề khiếu nại tố cáo

Đến nay, Luật xử lý vi phạm hành chính và văn bản hướng dẫn thi hành đã được đưa vào thi hành một thời gian dài, trên địa bàn quận Tân Bình đã tiến hành các bước tuyên truyền, áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn thi hành và đạt được nhiều kết quả khả quan. Đa phần, các tổ chức, cá nhân có liên quan đều chủ động tuân thủ các quy định về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói riêng và tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính nói riêng cũng như hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo khi thi hành các vụ việc nêu trên.. Phần lớn các chủ thể trong quan hệ pháp luật đã chủ động tiếp cận, phối hợp và có sự đầu tư trong việc thực hiện pháp luật về vấn đề này. Bức tranh toàn cảnh về công tác xử lý KNTC từ năm 2017 đến 2019 được phản ánh qua bảng số liệu sau:

Số vụ giải quyết khiếu nại tố cáo về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính trên địa bàn quận Tân Bình từ 2017 đến tháng 6 năm 2019[28-30]

Đơn vị: số vụ

  2017 2018 6 tháng năm 2019
Số vụ giải quyết KNTC 68 73 53

(Nguồn: UBND quận Tân Bình)

Điều này được thể hiện bằng biểu đồ sau đây:

Biểu đồ 2.3. Số vụ giải quyết khiếu nại tố cáo

Qua bảng số liệu thống kê và biểu đồ số vụ giải quyết KNTC trong giai đoạn từ 2017 đến 2019 cho thấy: Số lượng các vụ xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường qua các năm luôn biến động và có xu hướng tăng. Đây là thành quả của công tác quản lý hành chính NN cũng như việc áp dụng có hiệu quả Luật xử phạt vi phạm hành chính vào thực tiễn thi hành trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn thi hành pháp luật đã thu được nhiều kết quả không nhỏ, cụ thể là:

* Xây dựng và hoàn thiện rõ hơn hệ thống pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo đối với các quyết định về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề cũng như áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn tại quận Tân Bình trong những năm vừa qua. Những văn bản điều chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật cũng như các văn bản chỉ đạo của quận Tân Bình do Ủy ban nhân dân quận, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân quận ban hành là kim chỉ nam cho các hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo đối với các quyết định về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật dựa trên nền tảng là quy định của Hiến pháp và pháp luật là việc làm cần thiết. Đây thực sự là sự cố gắng lớn của các cơ quan, đơn vị trong quá trình áp dụng những quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính cũng như các cấp, ban ngành trên địa bàn quận Tân Bình trong những năm trở lại đây.

* Đối với cơ chế quản lý và thực thi pháp luật về xử phạt VPHC. Cùng với sự ra đời và áp dụng vào thực tiễn pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đã góp phần hình thành các cơ quan NN về quản lý và thực thi pháp luật về lĩnh vực này. Sự ra đời của các cơ quan chuyên trách nói trên đã góp phần quan trọng trong việc đưa các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và giải quyết khiếu nại tố cáo đối với các quyết định về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề áp dụng vào thực tiễn tại quận Tân Bình nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian qua.

Bên cạnh đó, những buổi tọa đàm về pháp luật xử phạt VPHC của nước ta là kênh cung cấp thông tin cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nhằm tiếp cận và hiểu rõ với hệ thống pháp luật của quốc gia về lĩnh vực này. Qua đó, trang bị cho các chủ thể những kiến thức cần thiết, thông tin về pháp luật, thực tiễn và mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về và giải quyết khiếu nại tố cáo đối với các quyết định về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề khi có hành vi vi phạm xảy ra.

2.3. Ưu điểm, hạn chế bất cập việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành:

2.3.1. Ưu điểm:

Trong bối cảnh chế độ xã hội tuân thủ hiến pháp và pháp luật như nước ta hiện nay, những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý. Tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi mà tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm về hình sự hoặc bị xử lý về hành chính. Có thể nói, bên cạnh quy định của pháp luật về hình sự thì các quy định về xử lý hành chính tại Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 là một trong những công cụ quan trọng việc duy trì trật tự quản lý nhà nước. Một trong những vấn đề quan trọng để đảm bảo quyết định xử phạt vi phạm hành chính đảm bảo tính kịp thời, góp phần giáo dục, răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân đó là phải đảm bảo quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải được ban hành đúng thời hạn và đúng thẩm quyền.

Thứ nhất, những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Khi phát hiện một tổ chức hoặc cá nhân có hành vi vi phạm hành chính thì trong thời hạn quy định, người có thẩm quyền có trách nhiệm phải ra quyết định xử phạt để áp dụng hình thức xử phạt và các biện pháp cần thực hiện để khắc phục hậu quả nếu có đối với người vi phạm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, cụ thể như sau:

– Một số trường hợp mà người vi phạm không bị xử phạt theo quy định tại Điều 11 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như: người thực hiện hành vi không có năng lực trách nhiệm hoặc chưa đủ tuổi, người thực hiện hành vi do phòng vệ chính đáng hoặc do sự kiện bất ngời, bất khả kháng.

– Do không xác định được tổ chức, cá nhân nào đã thực hiện hành vi vi phạm.

– Hành vi vi phạm được xác định là đã hết thời hiệu để xử phạt hoặc thời hạn ra quyết định xử phạt.

– Đối tượng thực hiện hành vi không còn tồn tại (cá nhân đã chết hay mất tích, tổ chức bị giải thể hay phá sản).

– Do có dấu hiệu về hình sự phải thực hiện chuyển hồ sơ vụ việc.

Thứ hai, về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Đối với hành vi vi phạm hành chính không lập biên bản quy định tại Điều 56 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì quyết định xử phạt được ban hành tại chỗ.

Thời hạn để người có thẩm quyền phải ra quyết định xử phạt đối với đối tượng thực hiện hành vi vi phạm được quy định tại Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như sau:

– Khi đối tượng có hành vi vi phạm bị lập biên bản, thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày đó người có thẩm quyền phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với họ.

– Riêng đối với trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hay trường hợp cần phải giải trình thì thời hạn ra quyết định xử phạt sẽ được kéo dài hơn nhưng tối đa không được quá 30 ngày kể từ ngày đối tượng đó bị lập biên bản về hành vi vi phạm.

– Nếu do tính chất của vụ việc là đặc biệt nghiêm trọng, nhiều tình tiết phức tạp và phải giải trình mà người có thẩm quyền giải quyết cần có thêm thời gian nhằm xác minh hay thu thập thêm về chứng cứ thì thời hạn ra quyết định có thể được gia hạn. Thời gian được gia hạn theo quy định là không quá 30 ngày, việc gia hạn phải được báo cáo đến thủ trưởng trực tiếp của người có thẩm quyền bằng văn bản để xin gia hạn.

– Đối với vị trí vai trò của Chủ tịch UBND phường trong việc thực hiện pháp luật về tịch thu tang vật, tạm giữ, tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề thông qua việc quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, ATXH và phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy chữa cháy, phòng chống bạo lực gia đình; Nghị định 171/2013/NĐ-CP của Chính phủ về xử lý hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt, Nghị định 81/2013/NĐ –CP ngày 19/07/2013 quy định chi tết một số điều và biện pháp thi hành luật xử phạt vi phạm hành chính; Nghị định 46/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ…là cơ sở quan trọng thể hiện quyền lực quan trọng để tạo điều kiện nhằm tăng cường chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch UBND phường trong việc thực hiện thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực theo quy định của pháp luật.

Như vậy, thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đã được tăng cường cho cấp cơ sở. Điều này không chỉ đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả của việc xử phạt hành chính, góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về hành chính. 

2.3.2. Hạn chế:

  1. a) Quy định về ủy quyền, giao quyền và vắng mặt trong Luật Xử lýVPHC chưa rõ ràng, khó áp dụng

Khoản 3 Điều 54 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt VPHC của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ người nào khác”. Thế nào là “giao quyền”, thế nào là “ủy quyền”. Đến nay, trong khoa học pháp lý, thuật ngữ ủy quyền thường được sử dụng, đó là phải có văn bản ủy quyền trong đó người ủy quyền phải giới hạn về thời gian và nội dung và văn bản ủy quyền được xem là cơ sở pháp lý khi ban hành các văn bản.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 87 Luật Xử lý VPHC quy định: “Người có thẩm quyền cưỡng chế có thể giao quyền cho cấp phó. Việc giao quyền chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn được giao quyền. Cấp phó được giao quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền tiếp cho bất kỳ cá nhân nào khác”. Trong quy định này có thể hiểu việc giao quyền chỉ xảy ra trong những trường hợp đặc biệt như thủ trưởng vắng mặt. Hơn nữa, Điều 87 chỉ quy định giao quyền mà không quy định việc ủy quyền.

Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật

Về quy định “vắng mặt” khi giao quyền, thực tiễn, các chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng quy định này rất lúng túng vì chưa hiểu phạm vi của quy định “vắng mặt” như thế nào, vắng mặt là không có mặt tại trụ sở cơ quan khi có lý do chính đáng hay là vắng mặt khi đi công tác khỏi địa phương.[27]

  1. b) Bất cập trong quy định về quyền giải trình của người vi phạm tại Điều 61

Quyền giải trình của người VPHC được quy định trong Luật Xử lý VPHC thể hiện rõ ý nghĩa trong việc hạn chế bớt khiếu nại, cũng như cho các chủ thể có liên quan được quyền thể hiện quan điểm của mình, tạo cơ chế để người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có cơ hội để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình hoặc nhờ người đại diện hoặc luật sư. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật về xử lý VPHC nhằm hướng tới mở rộng dân chủ, bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức vàhạn chế bớt việc khiếu nại, cũng như cho các chủ thể có liên quan được quyền thể hiện quan điểm của mình. Cụ thể:

– Đối với hành vi VPHC mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;

– Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Quy định này thể hiện những bất cập sau:

Thứ nhất, cá nhân, tổ chức nếu bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện VPHC hoặc phương tiện sử dụng trong VPHC sẽ không được quyền giải trình là sự bất hợp lý, gây thiệt thòi rất lớn cho những đối tượng bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trong nhiều trường hợp, thậm chí nhiều tang vật phương tiện còn có giá trị lớn hơn gấp nhiều lần so với số tiền bị xử phạt là 15triệu đồng hay 30 triệu đồng. Vì vậy, việc liệt kê thiếu sót có thể coi là một thiếu sót trong việc liệt áp dụng quyền giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm, cần sớm được bổ sung nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức.

Thứ hai, với quy định hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn sẽ tạo ra hai cách hiểu:

(1) Chỉ khi hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt chính thì mới có quyền giải trình;

(2) Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung cũng có quyền giải trình.

Nếu như cách hiểu thứ (1) thì chỉ có một số rất ít trường hợp mà hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt chính mới có quyền giải trình. Ví dụ Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình chỉ quy định hình thức phạt cảnh cáo và phạt tiền là hình thức xử phạt chính nên chỉ có những hành vi vi phạm nào bị phạt tiền từ 15 triệu đồng trở lên thì mới có thủ tục giải trình. Hoặc trường hợp Nghị định số 171/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt chỉ có khoản 10 Điều 6 quy định tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 24 tháng như là hình thức xử phạt chính (trong trường hợp có Giấy phép lái xe) hoặc phạt tiền từ 08 triệu đồng đến 10 triệuđồng (trong trường hợp không có Giấy phép lái xe hoặc có nhưng đang bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe) đối với người điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy.

Nếu theo cách hiểu thứ hai (2) thì có rất nhiều trường hợp người vi phạm hành chính có quyền giải trình, như các hành vi vi phạm quy định tại điểm b, điểm c khoản 4 Điều 6 của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì hành vi “Điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường hoặc làn đường quy định; hoặc điều khiển xe chạy dưới tốc độ tối thiểu trên những đoạn đường bộ có quy định tốc độ tối thiểu cho phép sẽ bị xử phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng, xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe một tháng”, hành vi này có hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe một tháng. Đây là những hành vi vi phạm rất phổ biến nên nếu nhiều người vi phạm cùng muốn thực hiện quyền giải trình của mình thì các cơ quan nhà nước sẽ không thể đủ nhân lực, cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện.

Thứ ba, thủ tục giải trình khó áp dụng trong thực tiễn một số lĩnh vực, cụ thể cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp, người có thẩm quyền xử phạt phải tổ chức phiên giải trình trực tiếp và có trách nhiệm nêu căn cứ pháp lý và tình tiết, chứng cứ liên quan đến hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả dự kiến áp dụng đối với hành vi vi phạm. Quy định này khó có tính khả thi vì thực tiễn các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là ở các thành phố trực thuộc trung ương có số lượng công việc rất nhiều, các vụ việc xử phạt vi phạm hành chính cũng nhiều nên khó có thể sắp xếp tổ chức thực hiện phiên giải trình trực tiếp trong một khoảng thời gian quá ngắn. Quy định này cũng chưa phù hợp với thực tế trong trường hợp người có thẩm quyền xử phạt là Chủ tịch UBND cấp phường, sau đó ủy quyền cho Phó Chủ tịch UBND cấp phường, lúc này Phó Chủ tịch UBND cấp phường (không thể ủy quyền lại việc xử lý vi phạm hành chính cho người khác) không thể đảm bảo vừa giải quyết công việc quản lý vừa trực tiếp giải trình với những nội dung chi tiết như trên. Vì vậy hiện nay, một số địa phương đã quy định trong trường hợp này người có thẩm quyền xử phạt là Chủ tịch UBND phường có quyền ủy quyền cho người khác thay mặt Chủ tịch UBND phường tổ chức phiên giải trình nhằm đảm bảo cho các phiên giải trình nhanh chóng, kịp thời. Quy định này có thể hiểu “người khác” đây không chỉ là Phó Chủ tịch UBND cấp phường.[30]

Bất cập trong quy định về xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính

So với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã có một bước tiến quan trọng đó là quy định phương án xử lý đối với trường hợp chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp giao tài sản cho cá nhân, tổ chức. Theo đó thì chỉ khi “chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp có lỗi cố ý trong việc để người vi phạm sử dụng tang vật, phương tiện vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 26 của Luật này thì tang vật, phương tiện đó bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước” (khoản 1 Điều 126).

Đối với lỗi vô ý hoặc không có lỗi (giao ngay tình) thì phải trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp. Đồng thời, Luật cũng quy định khi trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp kể cả trường hợp tang vật, phương tiện bị tạm giữ do chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước[26]

Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính hoàn toàn không quy định trường hợp nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không nộp hoặc không thể nộp (do hoàn cảnh kinh tế) một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách thì chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp có được nhận lại tang vật, phương tiện của mình hay không. Chính sự không rõ ràng này dẫn đến thực trạng có sự giải quyết không thống nhất từ chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật và thường giải quyết theo xu hướng thúc ép cá nhân, tổ chức vi phạm nộp khoản tiền tương ứng mới đồng ý để chủ sở hữu, người sử dụng, quản lý hợp pháp nhận lại tang vật, phương tiện. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người sử dụng, quản lý hợp pháp đối với tang vật, phương tiện của họ [24].

Trường hợp người vi phạm có khả năng nộp tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách cố tình không nộp thì thủ tục cưỡng chế có được áp dụng như thủ tục cưỡng chế quyết định xử phạt vi phạm hành chính hay không, vẫn chưa được quy định.

2.4. Nguyên nhân, hạn chế của việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính.

2.4.1. Nguyên nhân khách quan:

  1. a) Nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả chưa rõ ràng

Quy định các nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ là căn cứ, cơ sở để Chính phủ dựa vào xây dựng nên các quy định về thẩm quyền đối với từng hành vi vi phạm hành chính trên các lĩnh vực trong nghị định mà còn là căn cứ pháp lý có giá trị áp dụng trực tiếp trong trường hợp nghị định quy định không rõ ràng hoặc trái với các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Chính vì vậy, việc xây dựng các nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền trong Luật Xử lý VPHC phải rõ ràng, cụ thể nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc trong hoạt động áp dụng pháp luật của người có thẩm quyền. Tuy nhiên, các quy định tại Điều 52 vẫn còn một số vấn đề chưa thực sự rõ ràng, chi tiết, khó có thể suy luận một cách trực tiếp hay gián tiếp. Cụ thể:

Thứ nhất, khoản 1 Điều 52 Luật xử lý VPHC quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền đối với từng chức danh được xác định theo tỷ lệ phần trăm khi xử phạt cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Đối với tổ chức, thẩm quyền xử phạt này được xác định là gấp hai lần thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân.

Tuy nhiên, thẩm quyền xử phạt tăng gấp đôi này lại chỉ được xác định trong trường hợp phạt tiền mà không đề cập tới các trường hợp khác, điển hình như việc tịch thu tang vật, phương tiện VPHC. Đối chiếu quy định về phạm vi thẩm quyền xử phạt của các chức danh có thẩm quyền xử phạt theo tỷ lệ phần trăm, ta thấy thẩm quyền của một số chức danh có thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm được xác định theo giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm tương ứng với phạm vi thẩm quyền phạt tiền. Ví dụ, điểm c khoản 1 Điều 38 Luật xử lý VPHC quy định thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã có quyền “tịch thu tang vật, phương tiện VPHC có giá trị không vượt quá mức xử phạt tiền được quy định tại điểm b khoản này” tức được tịch thu tang vật, phương tiện VPHC đến 10% mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực (tương tự như vậy xác định thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện). Vậy trường hợp thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã được xử phạt tăng lên gấp hai lần đối với tổ chức (tức 20% mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực) thì thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện VPHC có được tăng lên tương xứng gấp hai lần hay không? Vấn đề này chưa được nhắc đến trong khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Về nguyên tắc, nếu luật không quy định thì có nghĩa không được quyền mà không một cá nhân nào được phép tự suy luận. Tuy nhiên, điều này lại không hợp logic trong việc lựa chọn phương pháp để xác định giới hạn của thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tương xứng với thẩm quyền xử phạt tiền của các chức danh. Do đó, thiết nghĩ, điều này phải được quy định trong luật rõ ràng để làm căn cứ chuẩn xác cho các chủ thể áp dụng pháp luật giải quyết quan hệ cụ thể phát sinh.

 Thứ hai, khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định nguyên tắc phân định thẩm quyền xử phạt “trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thì việc xử phạt vi phạm hành chính do người thụ lý đầu tiên thực hiện”. Sự ghi nhận nguyên tắc này là minh chứng cho việc thừa nhận có thực trạng chồng chéo, trùng lắp thẩm quyền và đây được xem là giải pháp cho tình trạng chồng chéo, trùng lắp thẩm quyền của các chủ thể trong đó có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến thực trạng các chủ thể tranh giành nhau trong việc xử phạt để giành lợi ích hoặc đùn đẩy trách nhiệm xử phạt cho nhau. Do đó, đây không phải là một giải pháp hay để xử lý thực trạng này. Theo chúng tôi, để xử lý triệt để, cần phải quy định chặt chẽ, rõ ràng thẩm quyền quản lý (kể cả thẩm quyền được phân cấp) của các chức danh trên từng lĩnh vực, tránh sự chồng chéo, trùng lắp thẩm quyền quản lý. Một khi đã giải quyết ổn thỏa ở khâu xác định phạm vi thẩm quyền quản lý sẽ dẫn đến sự rõ ràng, minh bạch ở khâu xác định thẩm quyền xử lý vi phạm.

  1. b) Bất cập trong việc thực hiện thủ tục xử lý tang vật, phương tiện VPHC bị tịch thu

Khoản 3 Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định trách nhiệm cho người có thẩm quyền về thời hạn áp dụng thủ tục xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, “quá thời hạn này mà không thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Quy định này có mục đích tốt đẹp là nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết một cách nhanh chóng các vấn đề phát sinh từ xử lý vi phạm hành chính, ổn định lại trật tự quản lý. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, thời hạn này chỉ phù hợp đối với việc xử lý tang vật là tiền, chứng chỉ có giá, vàng, bạc, đá quý, kim loại quý, mà không phù hợp đối với những trường hợp tang vật, phương tiện phải tổ chức bán đấu giá được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 82 Luật xử lý vi phạm hành chính. Bởi thông thường, để thực hiện theo quy trình bán đấu giá tài sản phải tốn một khoản thời gian khá lâu để giám định, xác định giá trị tang vật, phương tiện do phải nhờ chuyên gia thực hiện. Nên chăng, pháp luật cần có sự phân biệt về thời hạn giữa các loại tang vật, phương tiện bị tịch thu cần phải xử lý.

Ngoài ra, điểm đ khoản 1 Điều 82 Luật xử lý vi phạm hành chính có quy định trường hợp phải xử lý tang vật, phương tiện vi phạm theo cách thức bán đấu giá là những “tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này”. Đối chiếu lại các trường hợp đã được liệt kê ta thấy, tại điểm c có liệt kê “tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là ma túy, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, vật có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, bảo vật quốc gia, cổ vật, hàng lâm sản quý hiếm, vật thuộc loại cấm lưu hành và tài sản khác. Như vậy, sự liệt kê tang vật, phương tiện cần phải xử lý theo cách thức chuyển giao cho cơ quan nhà nước chuyên ngành để quản lý, xử lý rất rộng và “tài sản khác” được liệt kê ở đây không rõ là những tài sản nào. Nếu hiểu theo nghĩa là những tài sản còn lại không được liệt kê thì sẽ không còn đối tượng nào khác có thể rơi vào điểm đ khoản 1. Đây là một sự không rõ ràng trong quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà hiện nay vẫn chưa được một văn bản nào giải thích điều khoản này, gây khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng.

Ngoài ra còn một số nguyên nhân sau:

Lĩnh vực XLVPHC rất rộng, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau, dẫn đến việc khó kiểm soát hết các hành vi vi phạm được quy định trong các Nghị định XPVPHC chuyên ngành, dẫn đến nhiều sự trùng lặp trong hành vi cũng như thẩm quyền xử phạt của các lực lượng có thẩm quyền.

Xuất phát từ chính những quy định của pháp luật về XLVPHC cũng như các quy định của pháp luật liên quan chưa được rõ ràng, cụ thể hoặc không phù hợp với thực tiễn áp dụng.

Cư dân ở nhiều vùng, nhiều địa phương có trình độ dân trí thấp, ít hiểu biết pháp luật, điều kiện kinh tế khó khăn; đặc biệt là ở vùng sâu vùng, vùng xa, điều kiện giao thông khó khăn, địa bàn rộng, phong tục tập quán lạc hậu.

2.4.2. Nguyên nhân chủ quan:

Theo quy định tại Điều 119 và 125 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì trong trường hợp cần ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính, để xác minh tình tiết vi phạm hoặc để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (đối với trường hợp chỉ phạt tiền) có quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Và để có thể tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền tạm giữ phải ban hành quyết định tạm giữ theo mẫu 14 ban hành kèm theo Nghị định 81/2013/NĐ-CP và phải lập biên bản ghi rõ tên, số lượng, chủng loại, tình trạng của tang vật, phương tiện bị tạm giữ, phải có chữ ký của người ra quyết định tạm giữ, giao cho người vi phạm 01 bản. Như vậy, theo quy định trên thì khi tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính người ra quyết định tạm giữ phải có mặt tại hiện trường, phải có con dấu của cơ quan kèm theo…Quy định này đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, bởi vì những người có thẩm quyền tạm giữ như Chủ tịch UBND các cấp thì không thể có mặt thường xuyên tại nơi xảy ra vi phạm để ký quyết định, biên bản.

Bên cạnh quy định nêu trên thì theo mẫu biên bản vi phạm hành chính số 01 ban hành kèm theo Nghị định 81/2013/NĐ-CP thì có hướng dẫn ghi biện pháp ngăn chặn là tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Và trên thực tế các cơ quan tham mưu khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính thì lập biên bản, trong đó thể hiện rõ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ chứ không tham mưu người có thẩm quyền ban hành quyết định tạm giữ theo quy định.Do giữa Luật xử lý vi phạm hành chính và biểu mẫu 01 của Nghị định 81 không thống nhất cho nên dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Và để cho thuận tiện, nhanh chóng thì các cơ quan chuyên môn thường chọn áp dụng biểu mẫu 01 để ghi luôn việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thay vì phải làm theo trình tự, thủ tục là phải có quyết định tạm giữ, biên bản tạm giữ.

Theo quan điểm của người viết thì để áp dụng thống nhất pháp luật đối với trường hợp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng là khi lập biên bản vi phạm hành chính, nếu cần thiết phải áp dụng tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, ghi rõ tang vật, phương tiện bị tạm giữ, trên cơ sở biên bản vi phạm hành chính người có thẩm quyền ban hành quyết định tạm giữ. Như vậy, sẽ thuận tiện và phù hợp với thực tế hơn trong quá trình áp dụng.

Số lượng các văn bản QPPL về XLVPHC lớn, nhiều nội dung khó, phức tạp; trong khi đó, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về XLVPHC là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về công tác này, do đó ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ công việc đặc biệt là cán bộ, công chức ở cấp huyện, cấp xã.

Công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong việc trao đổi thông tin, sử dụng lực lượng phối hợp, đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật chưa chặt chẽ, nhiều thủ tục bất cập.

Nhận thức pháp luật của một số cán bộ, công chức về quản lý XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật còn hạn chế; cán bộ đầu mối phụ trách, tham mưu của một số đơn vị còn thiếu.

Ý thức chấp hành pháp luật của một số bộ phận cá nhân, tổ chức còn hạn chế, thường xuyên lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi vi phạm.

Kinh phí phục vụ cho công tác quản lý XLVPHC cũng như phương tiện, thiết bị nghiệp vụ phục vụ trong công tác XPVPHC chưa được đảm bảo, do đó, công tác quản lý nhà nước và XLVPHC triển khai chưa đồng bộ, hiệu quả, kịp thời để đáp ứng nhiệm vụ được giao và nhu cầu thực tế trong công tác thi hành pháp luật về XLVPHC của các ngành, lĩnh vực.


Trên đây là mẫu chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Thực trạng thực hiện về tạm giữ tang vật,phương tiện, giấy phép hành nghề được chia sẻ miễn phí, các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây. Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên, nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo