Quyền Tự Do Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Theo Pháp Luật Việt Nam

Rate this post

Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Quyền Tự Do Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Theo Pháp Luật Việt Nam dành cho các bạn sinh viên ngành Luật đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp về Quyền Tự Do Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Theo Pháp Luật Việt Nam được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp, nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói, chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


Table of Contents

ĐỀ TÀI: QUYỀN TỰ DO KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

PHẦN I: NHẬT KÝ THỰC TẬP VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP

  1. Nhật ký thực tập

1.1. Lời cảm ơn

1.2. Lời cam đoan

1.3. Nhật ký thực tập

1.4. Nhận xét của đơn vị thực tập (có dấu tròn theo mẫu)

1.5. Nhận xét của người hướng dẫn

  1. Tổng quan về đơn vị thực tập

2.1. Giới thiệu chung về đơn vị thực tập

2.2. Vị trí công việc thực tập

PHẦN II: ĐỀ TÀI THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

LỜI MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1.Khái niệm về quyền tự do kinh doanh, bảo vệ quyền tự do  kinh doanh trong pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, nội dung của quyền tự do kinh doanh
1.1.2. Khái niệm và các thiết chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh  trong pháp luật Việt Nam
1.2.Nội dung, đặc điểm, ý nghĩa của bảo vệ quyền tự do kinh doanh  trong pháp luật Việt Nam
1.2.1. Nội dung của việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh
1.2.2. Đặc điểm của bảo vệ quyền tự do kinh doanh
1.2.3. Ý nghĩa của bảo vệ quyền tự do kinh doanh
1.3. Những yếu tố tác động đến bảo vệ quyền tự do kinh doanh
1.3.1. Thể chế chính trị
1.3.2. Cơ chế quản lý kinh tế

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH  TRONG PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tư hữu tài sản
2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do thành lập doanh nghiệp
2.1.3. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do định đoạt trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế
2.1.4. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do hợp đồng
2.1.5. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do cạnh tranh lành mạnh
2.2. Những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh, nguyên nhân của những hạn chế
2.2.1. Pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh có sự chồng chéo, mâu thuẫn
2.2.2. Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh không có tính khả thi
2.2.3. Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh mang nặng dấu ấn của quản lý độc quyền hành chính
2.2.4. Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa cân đối được quyền lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
2.2.5. Quy định bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa đầy đủ, một số quy định chưa tương thích với pháp luật quốc tế
2.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh

Chương 3:  GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1. Những căn cứ cho việc hình thành yêu cầu, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh
3.2.Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN 


Xem Thêm ==> Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền tự do kinh doanh trong pháp luật

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 2.1 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1.1.    Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tư hữu tài sản

Ở nước ta trước đây, chế độ công hữu được coi là nền tảng kinh tế của xã hội chủ nghĩa. Chính quan điểm này mà sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất đã bị hạn chế tối đa. Theo quy định của Điều 15 của Hiến pháp năm 1980 đã ghi nhận:

Mục đích chính sách kinh tế của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của xã hội bằng cách không ngừng phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa… [30].

Qua quy định nêu trên của bản Hiến pháp này cho thấy, Nhà nước ta đưa ra cơ sở phát triển kinh tế dựa vào nền tảng là chế độ tập thể làm chủ.  Tức là bảo vệ và duy trì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, gần như tất cả tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu toàn dân.

Tiếp đó, Điều 18 của Hiến pháp năm 1980 cũng quy định:

Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu của tập thể nhân dân lao động. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được ưu tiên phát triển [30].

Như vậy, từ quy định nêu trên chúng ta chỉ thấy xuất hiện hai hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Tương ứng với nó là hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Vai trò chủ chốt thuộc về kinh tế quốc doanh và được ưu tiên phát triển. Trong Hiến pháp năm 1980, chúng ta không thấy quy định về quyền tự do sở hữu tài sản. Điều 26 quy  định rằng các thành phần kinh tế tư nhân và tư bản chủ nghĩa sẽ được cải tạo “Nhà nước tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn bằng những hình thức thích hợp” [30]. Thành phần kinh tế tư nhân tư bản sẽ được cải tạo mà suy cho cùng là Nhà nước tìm cách triệt tiêu chế độ sở hữu tư nhân, cưỡng ép nó nhập vào kinh tế xã hội chủ nghĩa. Pháp luật chỉ cho phép công dân sở hữu thu nhập nhỏ lẻ, chủ yếu phát sinh từ thu nhập và các tư liệu dành cho sinh hoạt. Điều 27 của Hiến pháp ghi nhận: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt” [30].

“Nhận thức được quy luật vận động và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng ta đã tiến hành đổi mới nền kinh tế mà trước hết là đổi mới quan hệ sở hữu” [9, tr. 82]. Quan điểm về chế độ sở hữu ở nước ta đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có chính sách đổi mới. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã chỉ rõ “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu” [10]. Để thể chế hóa những tư tưởng, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quan trọng chúng ta có thể thấy rõ nhất trong Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001). Theo quy định của Điều 15 Hiến pháp thì:

Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng [35].

Như vậy, bên cạnh sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã chính thức được thừa nhận. Với quy định này, công dân có quyền tự do sở hữu tư liệu sản xuất, yếu tố nền tảng để thực hiện quyền tự do kinh doanh được pháp luật chính thức thừa nhận.

“Phù hợp với tính đa dạng chủ thể của quyền sở hữu” [9, tr. 84], Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định năm loại hình sở hữu ứng với năm loại chủ thể đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Theo quy định của Điều 213, Bộ luật Dân sự năm 2005 thì cá nhân có quyền tư hữu về tài sản, được toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt miễn là việc sở hữu đó không gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền lợi ích của người khác. Cụ thể quyền được quy định như sau: “Cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật” [39]. Căn cứ vào những quy định nêu trên thì cá nhân có toàn quyền lựa chọn cách thức sử dụng tài sản của mình, họ có thể dùng cho hoạt động kinh doanh, tiêu dùng, sản xuất hoặc bất cứ mục đích nào khác trong phạm vi khuân khổ được pháp luật cho phép.

Ngoài việc pháp luật quy định công dân có quyền được tự do chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình, bên cạnh đó pháp luật quy định rõ tài sản hợp pháp của công dân được các chủ thể khác tôn trọng, thừa nhận. Theo quy định của khoản 2, Điều 5, Luật doanh nghiệp năm 2005 thì “Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp” [40]. Điều 4 của Luật Đầu tư năm 2005 cũng quy định “Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát  triển lâu dài của các hoạt động đầu tư” [43]. Như vậy, theo quy định nêu trên thì tài sản thuộc quyền sở hữu của tư nhân sẽ được nhà nước thừa nhận, toàn bộ tài sản của tư nhân sẽ được nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Hơn nữa, đối với những nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành thực hiện các dự án, các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam cũng được pháp luật bảo vệ tối đa quyền sở hữu, khoản 2, Điều 4 của Luật Đầu tư quy định: “Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư” [43]. Một trong những đảm bảo đóng vai trò quan trọng nhằm thu hút đầu tư đó chính là việc đối xử bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, họ đều được pháp luật bảo vệ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, bảo vệ quyền tư hữu về tài sản “vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính” [43].

Như vậy, các quy định hiện hành của pháp luật nước ta về sở hữu đã thể hiện khá rõ nét yếu tố cá nhân có quyền tư hữu về tài sản, và tài sản được nhà nước tôn trọng và thừa nhận.

Quyền tư hữu về tài sản được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật. Việc bảo vệ quyền tư hữu được thực hiện ở hai mức độ. Một mặt, nhà nước quy định phạm vi những quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để chủ sở hữu tài sản thực hiện các quyền sở hữu của mình một cách an toàn, đầy đủ nhất. Mặt khác, nhà nước quy định những biện pháp pháp lý cụ thể để dựa vào đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình.

Theo quy định của Điều 255 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người  có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật [39].

Việc thực hiện các quyền nêu trên được thể hiện bằng các biện pháp khác nhau. Chủ sở hữu có thể tự mình thực hiện để bảo vệ, ngăn chặn các hành vi xâm hại tới quyền sở hữu của mình; họ cũng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc chấm dứt những hành vi đó hoặc khởi kiện trước tòa án.

Ngoài phương thức bảo vệ quyền tư hữu về tài sản theo thủ tục của luật dân sự, việc bảo vệ quyền này còn được thực hiện theo thủ tục hành chính. Việc bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất theo trình tự của pháp luật hành chính được thực hiện bằng các biện pháp như: đăng ký tài sản, đăng ký kinh doanh, xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền  sở hữu. Ví dụ theo quy định của Điều 211 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009) thì:

Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị xử phạt vi phạm hành chính:

  1. Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
  2. Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
  3. Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này [44].

Theo quy định của khoản 1, Điều 14 Nghị định số 43/2010 ngày 15/4/2010 về đăng ký doanh nghiệp quy định nghiêm cấm việc đặt tên trùng hoặc gây nhầm lẫn:

Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký trong phạm vi toàn quốc, trừ những doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã giải thể. Quy định này được áp dụng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 [6].

Việc đăng ký tài sản, đăng ký nhãn hiệu, đăng ký tên doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý nhằm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của mình, trong trường hợp quyền sở hữu bị vi phạm cá nhân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc chủ thể vi phạm chấm dứt các hành vi xâm phạm đến quyền tư hữu về tài sản, đồng thời trong một số trường hợp các chủ thể này còn bị áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.

Pháp luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu là tội phạm và quy định mức hình phạt tương ứng đối với những hành vi vi phạm đó. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khách thể của các tội phạm sở hữu là quyền sở hữu tài sản, nhưng không có nghĩa là hành vi phạm tội phải xâm hại tới tất cả ba quyền năng của quyền sở hữu, mà chỉ cần gây thiệt hại cho một trong các quyền năng đó cũng cấu thành tội xâm phạm sở hữu. Chẳng hạn, tội sử dụng trái phép tài sản được quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự. Hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu bao gồm: phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn, phạt tù chung thân, hoặc tử hình. Ngoài ra người phạm tội còn bị áp dụng một số hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, phạt tiền. Quy định nghiêm khắc của chế tài trong pháp luật hình sự có tác dụng răn đe, giáo dục và trừng trị cá nhân xâm phạm đến quyền sở hữu. Những quy định này là đảm bảo về mặt pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền tư hữu tài sản hợp pháp của công dân.

2.1.2.  Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do thành lập doanh nghiệp

Năm 1987 Luật Đầu tư nước ngoài ra đời đánh dấu một bước chuyển biến mới trong hoạt động kinh doanh. Năm 1990 một đạo luật về công ty được ban hành mở màn cho một cuộc tiếp nhận mới về pháp luật công ty trong đời sống pháp lý và kinh doanh của người Việt. Cho đến hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của các doanh nghiệp thì chúng ta đã quá quen thuộc với những mô hình doanh nghiệp, nhà đầu tư có thể tự do lựa chọn cho mình hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp nhất với mục tiêu kinh doanh của mình. Như vậy, phải mất rất nhiều thời gian thì các mô hình doanh nghiệp mới được hình thành và phát triển như hiện nay ở Việt Nam. Đó là cả một quá trình tích lũy, thích nghi và vận dụng vào thực tiễn của cả một dân tộc.

“Về mặt lý luận, thành lập doanh nghiệp được xem là nội dung pháp lý quan trọng về địa vị pháp lý của doanh nghiệp, có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp” [9, tr. 94] . Đối với nền kinh tế thị trường, nếu quyền tự do thành lập doanh nghiệp không được bảo đảm thì không thể duy trì và phát triển môi trường kinh doanh được. Tuy nhiên, việc khai sinh ra các doanh nghiệp vừa phải đảm bảo được quyền lợi của các nhà đầu tư, vừa phải đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước. Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, một mặt ghi nhận quyền tự do thành lập doanh nghiệp vừa bảo vệ quyền này. Điều đó thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

  • Pháp luật mở rộng chủ thể có quyền góp vốn, quyền thành lập doanh nghiệp.

Theo quy định của khoản 1, khoản 3 của Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định đối tượng được quyền thành lập và góp vốn vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn gồm:

Điều 13. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lý doanh nghiệp

  1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
  2. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này [40].

Quy định này của pháp luật cho phép các chủ thể gồm cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có quyền thành lập, góp vốn hoặc dùng hình thức khác để thành lập doanh nghiệp. Quyền này được ghi nhận trong khoản 1, Điều 5 của Nghị định số 43/2010/NĐ-CP: “Thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật là quyền của cá nhân, tổ chức và được Nhà nước bảo hộ” [6].

Luật Doanh nghiệp năm 2005 áp dụng phương pháp loại trừ đối với một số trường hợp không được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn để kinh doanh như: các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, sĩ quan… Việc pháp luật quy định như vậy xuất phát từ lợi ích nhà nước và lợi ích của toàn xã hội. Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng một số đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp vẫn có quyền góp vốn vào doanh nghiệp. So với Luật doanh nghiệp năm 1999 thì Luật Doanh nghiệp năm 2005 đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp được mở rộng hơn, chẳng hạn như người nước ngoài không cần phải thường trú tại Việt Nam vẫn có quyền thành lập doanh nghiệp.

Như vậy, việc mở rộng các chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp, trở thành cổ đông hoặc chủ sở hữu là một quyền năng cơ bản của công dân, tổ chức. Điều này góp phần không nhỏ làm tăng nhanh số lượng doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian qua.

Các quy định hiện hành cho thấy pháp luật Việt Nam đã ghi nhận một phạm vi rất rộng các đối tượng được quyền tham gia thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. Như PGS.TS Dương Đăng Huệ đã viết: biểu hiện đầu tiên và quan trọng nhất của tự do kinh doanh là sự mở rộng một cách đáng kể thành phần các chủ thể được phép tham gia thành lập doanh nghiệp.

  • Pháp luật mở rộng phạm vi các ngành nghề kinh doanh

Pháp luật hiện hành đã ghi nhận phạm vi rộng rãi các ngành nghề được kinh doanh. Về nguyên tắc, các nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào mà pháp luật không cấm. Theo quy định của Điều 7, Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 15/03/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp quy định cụ thể danh mục ngành nghề cấm kinh doanh đối với các nhà đầu tư. Như vậy, pháp luật hiện hành đã ghi nhận một phạm vi rộng rãi các ngành nghề được kinh doanh. Về nguyên tắc, các nhà đầu tư có quyền lựa chọn bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm kinh doanh những ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Việc quy định rõ ngành nghề kinh doanh theo phương pháp loại trừ thể hiện được tính minh bạch của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiến hành thành lập doanh nghiệp.

  • Pháp luật hiện hành mở rộng các mô hình tổ chức kinh doanh để các nhà đầu tư lựa chọn

Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta dựa trên nền tảng là kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Người dân rất xa lạ với khái niệm loại hình doanh nghiệp, hoạt động kinh tế mang tính tự cấp, buôn bán nhỏ lẻ. Người dân quen nhìn các “mậu dịch viên” và gần như không có các khái niệm về thương nhân, các nhà đầu tư, hay công ty. Với quyết tâm đổi mới nền kinh tế đất nước, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội hàng loạt chính sách pháp luật ra đời khuyến khích kinh doanh phát triển. Hiện nay, quyền của các nhà đầu tư trong việc được phép lựa chọn hình thức đầu tư được pháp luật mở rộng. Các cá nhân, tổ chức không phân biệt trong nước hay nước ngoài được phép lựa chọn mô hình sao cho phù hợp nhất để tiến hành các hoạt động kinh doanh.

Theo quy định của Điều 21 Luật Đầu tư năm 2005 cho phép các chủ đầu tư được phép lựa chọn các loại hình đầu tư sau đây:

Điều 21. Các hình thức đầu tư trực tiếp

  1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
  2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
  3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng
  4. Đầu tư phát triển kinh
  5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
  1. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
  2. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác [43].

Như vậy, pháp luật về đầu tư cho phép các chủ thể có quyền lựa chọn nhiều hình thức đầu tư phù hợp với năng lực sản xuất, mục đích kinh doanh mà các chủ thể hướng tới.

Một trong những nội dung cơ bản của quyền tự do thành lập doanh nghiệp là quyền lựa chọn mô hình doanh nghiệp. Về nguyên tắc, quyền lựa chọn mô hình doanh nghiệp chỉ có thể được bảo đảm thực sự khi pháp  luật ghi nhận nhiều mô hình tổ chức kinh doanh với các tính chất pháp lý khác nhau để các nhà đầu tư tự lựa chọn. Hiện nay, trong luật doanh nghiệp quy định các mô hình gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Các nhà đầu tư có quyền lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp để phục vụ mục đích kinh doanh của mình.

  • Pháp luật đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp

Thủ tục đăng ký, thành lập doanh nghiệp là thủ tục hành chính, thông qua thủ tục này nhà nước công nhận địa vị pháp lý của doanh nghiệp. Một trong những yêu cầu cấp thiết là đơn giản hóa các thủ tục hành chính để các nhà đầu tư có thể thực hiện được quyền đăng ký, thành lập doanh nghiệp một cách thuận lợi nhất. Việc cải cách thủ tục hành chính sẽ xóa tan tâm lý “mệt mỏi” vì phải cung cấp quá nhiều giấy tờ, và hơn nữa sẽ giảm đi rất nhiều chi phí giao dịch, thu hút nhiều hơn nữa nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn để thành lập doanh nghiệp.

Đáp ứng yêu cầu của quyền tự do thành lập doanh nghiệp, mà trực  tiếp là quyền tự do thành lập doanh nghiệp pháp luật hiện hành đã quy định thủ tục thành lập doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa thủ tục và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư. Về cơ bản, việc thành lập doanh nghiệp do các nhà đầu tư tự quyết định và tiến hành; nhà nước chỉ can thiệp vào quá trình thành lập doanh nghiệp ở giai đoạn đăng ký kinh doanh. Hồ sơ đăng ký kinh doanh chủ yếu là các giấy tờ, tài liệu do nhà đầu tư tự xây dựng.

Theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003 khi muốn thành lập hợp tác xã, các sáng lập viên cùng nhau chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đăng ký kinh doanh. Công việc chuẩn bị trước khi đăng ký kinh doanh hợp tác xã do các sáng lập viên hợp tác xã tự tiến hành (tuyên truyền, vận động thành lập hợp tác xã, tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã…) Sau khi hoàn tất công việc chuẩn bị, các sáng lập viên nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh đến cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc cấp huyện nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính. Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:

  1. Ðơn đăng ký kinh doanh;
  2. Ðiều lệ hợp tác xã;
  3. Số lượng xã viên, danh sách Ban quản trị, Ban kiểm soát của hợp tác xã;
  4. Biên bản đã thông qua tại Hội nghị thành lập hợp tác xã [37].

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải xem xét hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã; trường hợp từ chối thì phải trả lời bằng văn bản. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong các quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp so với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân trước đây. Luật Doanh nghiệp 2005 về cơ bản đã bãi bỏ điều kiện vốn pháp định khi thành lập doanh nghiệp (trừ đối với một số doanh nghiệp kinh doanh trong những lĩnh vực mà pháp luật quy định cụ thể như: kinh doanh bất động sản, kinh doanh tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…). Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, người thành lập doanh nghiệp khi muốn thành lập doanh nghiệp cần xây dựng hồ sơ và gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp. Nếu quá thời hạn trên mà không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Khi xem xét để cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh phải dựa trên những điều kiện do pháp luật quy định. Nếu người thành lập doanh nghiệp có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận thì cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Ngoài việc người thành lập doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh theo phương pháp truyền thống là đến trực tiếp tại phòng đăng ký kinh doanh thì theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 4/5/2010 hướng dẫn thi hành luật doanh nghiệp thì người đăng ký kinh doanh có thể đăng ký kinh doanh qua cổng thông tin điện tử quốc gia. Đây có thể coi là bước tiến rất quan trọng trong công tác cải cách hành chính tiết kiệm được thời gian, giảm chi phí giao dịch cho người có nhu cầu thành lập doanh nghiệp.

Xem Thêm ==> Viết chuyên đề thực tập giá rẻ 

Tiếp đó, tại Thông tư số 14/2010/TT-BKH ngày 04/6/2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 04/5/2010 quy định rõ từng trường hợp đăng ký kinh doanh đối với người đã có chữ ký điện tử và người chưa có chữ ký điện tử. Việc trả kết quả đăng ký kinh doanh qua mạng cũng rất thuận tiện cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo qua mạng điện tử cho cá nhân, tổ chức đã đăng ký doanh nghiệp thời điểm trả kết quả đăng ký doanh nghiệp hoặc các nội dung cần bổ sung, sửa đổi.

  • Nhà đầu tư được ưu đãi về đầu tư

Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư thì được hưởng các khoản ưu đãi về thuế suất, được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư, phương tiện vận tải và hàng hóa khác, được ưu đãi về sử dụng đất như được miễn giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất…Như vậy, với các chính sách ưu đãi đầu tư như hiện nay thì các nhà quản lý mong muốn sẽ có được một thị trường đầu tư lành mạnh, cân đối giữa các vùng miền, xóa dần khoảng cách giữa các khu vực kinh tế phát triển với khu vực chậm phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

  • Các quyền về giải thể, sáp nhập, phá sản, hợp nhất doanh nghiệp

Đăng ký doanh nghiệp, đăng ký các dự án đầu tư thực chất là việc khai sinh ra các hoạt động kinh doanh. Trong môi trường kinh doanh hiện đại thì việc chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp, hợp nhất, sáp nhập, giải thể cũng là điều hoàn toàn bình thường và tuân theo quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Pháp luật của nước ta hiện nay cũng quy định cụ thể quyền của được tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp. Đây là một trong những quyền năng cơ bản của doanh nhân bởi vì khi mục tiêu đã đạt được hoặc gặp những khó khăn nhất định thì tái cơ cấu doanh nghiệp hoặc chấm dứt hoạt động là một phương pháp vô cùng quan trọng để chủ thể bảo toàn vốn. Bên cạnh đó, việc tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp là một công cụ để các cơ quan nhà nước quản lý kiểm tra, giám sát và loại bỏ những  doanh nghiệp, dự án không hiệu quả, vi phạm những quy định của pháp luật và quan trọng hơn là làm sạch môi trường kinh doanh.

  • Các biện pháp bảo vệ quyền tự do thành lập doanh nghiệp.

Theo quy định tại Nghị định số 53/2007/NĐ-CP ngày 04/4/2007 quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư đã xác định rõ các hành vi vi phạm về: i) những hành vi vi phạm về ưu đãi đầu tư; ii) những hành vi vi phạm về thành lập quản lý doanh nghiệp, quản lý hợp tác xã, liên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; iii) những hành vi vi phạm đăng ký kinh doanh trụ sở doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hợp tác xã; iv) những hành vi liên quan đến thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh doanh nghiệp… Toàn bộ những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật đều chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:

  1. Cảnh cáo;
  2. Phạt tiền.

Mức phạt tối đa đến 70.000.000 đồng.

  1. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề.
  2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn bị buộc phải áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điều của Chương II Nghị định này [5].

Bên cạnh việc xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật về hình sự cũng có những quy định để bảo vệ quyền tự do thành lập doanh nghiệp: pháp luật đã nghiêm cấm các chủ thể kinh doanh những mặt hàng cấm như ma túy, các loại vũ khí… Bộ luật Hình sự đã quy định cụ thể các tội phạm và hình phạt nếu các chủ thể cố ý kinh doanh các mặt hàng này. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự cũng quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ví dụ như: tội buôn lậu, tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, tội sản xuất buôn bán hàng giả, tội kinh doanh trái phép…Nếu các chủ thể kinh doanh vi phạm những quy định cấm của pháp luật và các hành vi của họ thỏa mãn các dấu hiệu được quy định trong Bộ luật Hình sự thì họ sẽ chịu những chế tài nghiêm khắc của pháp luật.

2.1.3. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do định đoạt trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức giải quyết tranh chấp trong pháp luật hiện hành của nước ta hiện nay bao gồm: Hòa giải; thương lượng; giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại; thông qua con đường Tòa án.

  • Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa giải

“Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian, giúp các bên tranh chấp tìm ra một giải pháp phù hợp để chấm dứt các xung đột đã phát sinh” [9, tr. 144]. Về cơ bản hoà giải và thương lượng cũng tương tự về cách thức tiến hành. Điểm khác nhau cơ bản là bên thứ ba làm trung gian. Bên thứ ba do các bên tranh chấp cùng chấp nhận hay chỉ định, có vai trò đưa ra các gợi ý để các bên tham khảo, nhằm tìm ra một giải pháp chung có thể chấp nhận được cho tất cả các bên. Bên thứ ba phải có vị trí độc lập với các bên tranh chấp, nghĩa là không ở vị thế xung đột hay gắn kết lợi ích đối với một hoặc các bên tranh chấp.

Trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003, ngoài một số loại việc không cần tiến hành hòa giải, còn lại hòa giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các tranh chấp về dân sự. Tại Điều 10 của bộ luật này quy định cụ thể về hòa giải như sau: ” Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này” [36]. Đối với việc giải quyết vụ việc dân sự thì hòa giải được coi là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.

Khoản 2, Điều 317 Luật Thương mại cũng quy định: ” Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải” [42]. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2003 quy định đối với các tranh chấp trong lĩnh vực đất đai thì hòa giải ở cơ sở là một biện pháp cần thiết. Cụ thể Điều 135 đã quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở”. Trong Luật Đầu tư năm 2005, thì giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư thì ưu tiên hàng đầu phải lựa chọn là hòa giải: “Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật” [43].

Như vậy, hòa giải là một biện pháp được pháp luật khuyến khích và yêu cầu các chủ thể kinh doanh phải áp dụng khi có tranh chấp. Trên thực tế, hình thức này rất phổ biến đặc biệt như ở nước ta vốn chịu nhiều ảnh hưởng của phật giáo, nho giáo và theo truyền thống tự quản làng xã và truyền thống đó được thể hiện tương đối rõ nét trong quy định của pháp luật.

  • Hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng

“Là hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh mà không cần đến chủ thể thứ ba. Các bên trong tranh chấp thường tự tìm đến nhau để cùng bàn bạc, thảo luận để tìm các giải pháp phù hợp nhằm chấm dứt xung đột, bất đồng” [9, tr. 143]. Trong các tranh chấp thì bất kể chủ thể thứ ba nào cũng không thể hiểu rõ ngọn nguồn bằng các bên tranh chấp. Xuất phát từ ý chí của các bên tranh chấp muốn gỡ những mâu thuẫn bằng cách tự tìm đến với nhau để cùng đàm phán, thương lượng.

Thương lượng là hình thức thích hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Ưu điểm là không chịu sự ràng buộc của bất cứ các thủ tục pháp lý cứng nhắc nào. Việc thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng, kỹ năng đàm phán của các bên. Thương lượng là phương pháp ít tốn kém nhất các bên trong quan hệ tranh chấp sẽ tự tìm cách tháo gỡ, ít làm tổn hại đến quan hệ của các bên, bí mật kinh doanh được bảo vệ tuyệt đối.

  • Trọng tài thương mại

Trong thực tế, để giải quyết những tranh chấp thương mại và tranh chấp đầu tư, các bên tranh chấp có thể áp dụng rất nhiều cách thức. Có thể liệt kê ra đây những hình thức giải quyết tranh chấp như: tự thương lượng, tiến hành hòa giải, yêu cầu cơ quan tài phán giải quyết hoặc giải quyết tranh chấp thông qua con đường trọng tài. Mỗi một cách thức đều có những ưu điểm và nhược điểm. Các bên thường sẽ dựa trên những ưu và nhược điểm này để cân nhắc và lựa chọn cho mình một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp và hiệu quả nhất.

Nếu như đối với các nhà kinh doanh nước ta, việc lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp chưa được xem là sự lựa chọn phổ biến, đơn giản là vì các nhà kinh doanh của ta chưa đặt trọn niềm tin tưởng vào các trọng tài viên, cũng như chưa hoàn toàn coi trọng hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và hiệu lực thi hành của những quyết định trọng tài, nhất là trọng tài trong nước, thì ngược lại, trong thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư trên thế giới, cơ chế trọng tài lại được áp dụng rất thường xuyên và càng ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Thông thường, khi sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp, các nhà kinh doanh và nhà đầu tư hay chú ý đến những ưu điểm của cơ chế này so với thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa án. Căn cứ vào quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 và những quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục tố tụng tại tòa án có thể thấy giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại sẽ có nhiều ưu điểm như: tính chung thẩm và hiệu lực của phán quyết trọng tài rộng hơn phán quyết của Tòa án, đảm bảo cơ chế bí mật, giữ gìn được quan hệ đối tác, bên cạnh đó Trọng tài còn là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, linh hoạt…

  • Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa án

Chấp nhận nền kinh tế thị trường, đồng nghĩa với việc tuân theo quy tắc cạnh tranh khốc liệt, dưới sự phát triển nhanh của nền kinh tế kéo theo hàng loạt các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh ngày càng gay gắt. Đáp ứng yêu cầu phát sinh từ thực tiễn, để giải quyết các tranh chấp phát sinh thì pháp luật phải thể hiện vai trò đảm bảo duy trì trật tự trong xã hội. Trước đây pháp luật của ta quy định việc giải quyết tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh tế trong hai pháp lệnh khác nhau. Đó là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989. Hiện nay, đã được thống nhất trong bộ luật tố tụng dân sự. Theo quy định thì cơ quan tài phán mà cụ thể ở đây là Tòa án sẽ giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của đương sự bao gồm các lĩnh vực: dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động.

Ưu điểm của hình thức tố tụng tại Tòa án là thủ tục tiến hành chặt chẽ, theo những trình tự bắt buộc, qua hai phiên xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Bản án, quyết định được tuyên nhân danh nhà nước, nó được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước nếu các bên không tự nguyện thi hành. Nhưng bên cạnh đó, tố tụng Tòa án có những bất lợi cho các nhà kinh doanh: quyền tự định đoạt của đương sự ở một số phương diện bị hạn chế như không được tự do lựa chọn thẩm phán, tòa án…Thời hạn xét xử kéo dài vì phải tuân theo trình tự tố tụng, nguyên tắc xét xử công khai khó đảm bảo  được bí mật cho các bên tranh chấp; tính chất của việc giải quyết tranh chấp thường căng thẳng hơn so với trọng tài.

2.1.4.    Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do hợp đồng

  • Pháp luật thừa nhận quyền tự do giao kết hợp đồng

Xuất phát từ bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, nhìn từ góc độ cuộc sống đời thường thì hợp đồng chính là các bên tự quy định các quyền và nghĩa vụ cho nhau bởi vậy các bên có thể tự do đưa ra ý chí của mình trong việc giao kết hợp đồng. Pháp luật hoặc bất cứ cá nhân nào cũng không thể dùng ý chí của mình để ép buộc chủ thể khác giao kết hợp đồng mà nó phải xuất phát từ sự mong muốn thực sự của các bên nhằm tạo lập ra các giá trị pháp lý. Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định tự do thỏa thuận là một trong những nguyên tắc của pháp luật dân sự. Nguyên tắc này đã ghi nhận một cách tổng quát, bao trùm toàn bộ quan hệ pháp luật dân sự đó là sự thỏa thuận, tự do cam kết. Pháp luật cho phép các bên có quyền tự do xác lập quyền và nghĩa vụ với nhau, sau khi xác lập một cách hợp pháp chúng có hiệu lực bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện. Từ nguyên tắc chung này, tại Điều 389 của Bộ luật Dân sự đã quy định cụ thể nguyên tắc trong giao kết hợp đồng dân sự để các chủ thể tham gia hợp đồng căn cứ và thực hiện:

Điều 389. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự

Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:

  1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
  2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng [39].

Ngoài việc đưa ra các nguyên tắc để bảo vệ quyền tự do giao kết hợp đồng, pháp luật hiện hành cũng quy định trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội:

Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội

Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng [39].

Về cơ bản nguyên tắc này được hiểu như sau: hợp đồng được các chủ thể tham gia tự do giao kết trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng, thiện chí… nhưng không được trái pháp luật. Các điều cấm của pháp luật thường được quy định rõ trong nhiều văn bản khác nhau. Hiểu một cách đơn giản là chủ thể tham gia hợp đồng được giao kết hợp đồng trong phạm vi pháp không cấm. Chẳng hạn như pháp luật cấm buôn bán vũ khí, cấm buôn bán nội tạng người… thì các chủ thể không có quyền thực hiện các giao kết liên quan đến những điều mà pháp luật không cho phép. Mặt khác, đạo đức xã hội là những quy chuẩn chung được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng, và được bảo vệ bằng các giá trị văn hóa tồn tại lâu đời. Việc quy định hợp đồng không được vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, không thể vì lợi ích cá nhân mà xâm phạm đến trật tự công.

Quyền tự do giao kết hợp đồng còn được thể hiện trong việc pháp luật mở rộng các chủ thể có quyền giao kết hợp đồng. Mọi chủ thể khi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự đều có quyền giao kết hợp đồng. Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có thể là cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình pháp nhân… Trong một số trường hợp cá nhân chưa đầy đủ năng lực hành vi dân sự vẫn được thừa nhận là chủ thể trong giao dịch dân sự. Khoản 2, Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

  1. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [39].
  • Tự do lựa chọn đối tác

Quyền tự do giao kết hợp đồng chỉ là hình thức nếu các chủ thể hợp đồng không được tự do lựa chọn đối tác (hay bạn hàng) trong quan hệ hợp đồng. Khi thiết lập quan hệ hợp đồng, điều quan trọng đầu tiên mà chủ thể hợp đồng quan tâm là giao kết hợp đồng với ai, người đó có khả năng như thế nào đối với việc thực hiện hợp đồng sẽ được giao kết [9, tr. 112].

Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, pháp luật không can thiệp vào việc chủ thể sẽ ký kết hợp đồng với ai, cá nhân hay tổ chức (chỉ cần chủ thể tham gia thỏa mãn    một số điều kiện về năng lực hành vi dân sự). Mặt khác, pháp luật nghiêm cấm việc đe dọa, ép buộc, lừa dối trong việc giao kết hợp đồng. Pháp  luật  cho phép các chủ thể kinh doanh tự căn cứ vào nhu cầu để lựa chọn, kiếm  tìm đối tác, đặt mục tiêu tôn trọng, tự do ý chí lên hàng đầu trong việc lựa chọn bạn hàng.

  • Tự do thỏa thuận về hình thức

Hình thức của hợp đồng dân sự được hiểu là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng dưới một dạng vật chất nhất định.

Việc tự do thỏa thuận về hình thức của hợp đồng được quy định trong pháp luật dân sự thể hiện khá rõ nét yếu tố chủ thể tham gia hợp đồng có thể lựa chọn các hình thức khác nhau để xác định quyền và nghĩa vụ:

Điều 401. Hình thức hợp đồng dân sự

  1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
  2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [39].

Như vậy, theo quy định nêu trên của pháp luật thì hợp đồng dân sự sẽ được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản nếu pháp luật không có quy định khác. Ví dụ như việc vận chuyển hành khách liên tỉnh bằng đường bộ được thể hiện bằng hành vi cụ thể là các chủ phương tiện đưa hành đến bến sau đó khách hàng sẽ trả tiền giữa hành khách và các chủ phương tiện trên thực tế đã giao kết với nhau một hợp đồng vận chuyển. Trên thực tế các hợp đồng cần có sự kiểm soát thường liên quan đến bất động sản, các tài sản có giá trị lớn, các hợp đồng thế chấp, bảo lãnh…

  • Bảo vệ quyền tự do thỏa thuận về nội dung hợp đồng

“Nội dung của hợp đồng là toàn bộ các điều khoản mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng” [9, tr. 113]. Việc trao cho các chủ thể quyền thỏa thuận của hợp đồng là lẽ đương nhiên. Các chủ thể có quyền tự thỏa thuận với nhau về giá cả, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm thanh toán, thời điểm giao hàng, thời điểm phát sinh quyền nghĩa vụ, thời điểm giao kết, pháp luật còn thừa nhận hợp đồng có hiệu lực trong tương lai…Tự do thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng chính là một phần biểu hiện của sự tự do ý chí, khi ý chí của các bên được biểu đạt thông qua các quy định trong hợp đồng tức là các bên tham gia tự soạn luật cho nhau và buộc phải nghiêm túc thực hiện những quy định do mình đề ra. Bởi vậy, việc tự do thỏa thuận nội dung của hợp đồng góp phần không nhỏ trong việc phát huy quyền tự do kinh doanh.

  • Tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp

Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có phát sinh tranh chấp, các chủ thể có quyền được lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp. Ưu tiên các bên tự giải quyết trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, hoặc có thể nhờ đến trọng tài thương mại (kể cả trọng tài tại Việt Nam hoặc trọng tài quốc tế). Hoặc có thể nhờ đến cơ quan tài phán là Tòa án. Như vậy, việc hàn gắn các tranh chấp hay tìm đến một phương thức giải quyết tranh chấp khác sẽ do các bên tự lựa chọn, điều đó thể hiện pháp luật về hợp đồng hướng đến việc đề cao vai trò của tự do, đề cao yếu tố thỏa thuận trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.

  • Tự do thỏa thuận để thay đổi, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng

“Quyền tự do hợp đồng còn thể hiện ở chỗ các chủ thể có quyền thỏa thuận để thay đổi, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng đã giao kết” [9, tr. 114]. Có thể thấy một điều hợp lý đó là các chủ thể đã có quyền tạo ra hợp đồng thì đương nhiên họ cũng có quyền định đoạt số phận pháp lý của hợp đồng trong quá trình thực hiện. Nói cách khác, quyền tự do thoả thuận định đoạt số phận pháp lý của hợp đồng là nội dung cấu thành không thể thiếu của quyền tự do hợp đồng và được pháp luật thừa nhận. Từ Điều 423 đến 426 của Bộ luật Dân sự quy định về việc sửa đổi, chấm dứt, đơn phương, hủy bỏ hợp đồng dân sự. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng sẽ được tự do thể hiện ý chí của mình trong việc tiếp tục thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng.

2.1.5.    Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do cạnh tranh lành mạnh

Pháp luật Việt Nam hiện nay định nghĩa việc cạnh tranh không lành mạnh là “hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng” [38, khoản 4, Điều 3].

Các nguyên tắc chung được quy định trong Điều 28, Hiến pháp năm 1992 đó là:

Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng [32].

Như vậy, việc chống lại các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp, trong đó có cạnh tranh không lành mạnh và bảo hộ quyền lợi người sản xuất, người tiêu dùng đã được ghi nhận như một nguyên tắc Hiến định. Đó là nền tảng pháp lý quan trọng, làm cơ sở cho việc thể chế hóa pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh tại các văn bản pháp luật khác.

Bộ luật Dân sự năm 2005 xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự, trong đó bao gồm những nguyên tắc quy định trách nhiệm  của mọi đối tượng khi tham gia xác lập quan hệ dân sự, trách nhiệm của các các chủ thể tham gia quan hệ dân sự phải đảm bảo việc giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật 

Bên cạnh việc đề cao giá trị đạo đức trong quan hệ dân sự, trong Bộ luật này cũng quy định: “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” [39, Điều 10].

Theo những quy định nêu trên thì cạnh tranh trong kinh doanh (là một bộ phận của quan hệ pháp luật dân sự) phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, tôn trọng lợi ích công cộng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, tôn trọng quyền nhân thân và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khác.

Trong Luật Cạnh tranh năm 2004 đã quy định về quyền cạnh tranh trong kinh doanh như sau:

  1. Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh
  2. Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật này [38].

Trong kinh doanh thương mại việc khuếch trương, quảng bá thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ của mình để người tiêu dùng biết đến. Quảng cáo là một phương tiện quan trọng trong cạnh tranh thương mại. Các thương nhân được quyền quảng cáo cho các sản phẩm dịch vụ của mình nhưng phải trong khuân khổ pháp luật và không làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể khác. Pháp luật về quảng cáo nghiêm cấm thương nhân không được lợi dụng quảng cáo để gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, cá nhân và các thương nhân khác.

Nhà nước khuyến khích cạnh tranh, nhưng không chấp nhận sự cạnh tranh không lành mạnh, nhất là sự cạnh tranh làm thiệt hại đến lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng. Bởi vậy, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng là một trong những nội dung được pháp luật quy định chặt chẽ. Bên cạnh đó, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng quy định những  chế tài để xử lý các hành vi vi phạm. Như vậy, ngoài các hành vi bị  cấm  pháp luật còn quy định những hình thức xử lý khác để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người tiêu dùng. Đối với các cá nhân, tổ chức nếu vi phạm có thể bị xử lý hành chính, hình sự hoặc phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.

Nếu như pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh được coi là luật tư, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và doanh nhân bị hại trước hành vi cạnh tranh vi phạm đạo đức và truyền thống tốt đẹp thì kiểm soát chống độc quyền về cơ bản là luật công, đảm bảo cho quyền lực nhà nước can thiệp một cách có hiệu quả để giữ gìn cạnh tranh.

Xuất phát từ một nền kinh tế tập trung bao cấp, nền tảng kinh doanh dựa trên các doanh nghiệp mà Nhà nước là chủ sở hữu cho nên việc kiểm soát doanh nghiệp hoạt động độc quyền là thiết yếu. Những quy định này phần nào đã thể hiện được vai trò điều phối, quản lý các hoạt động cạnh tranh của nhà nước, là một trong những biện pháp để giảm bớt sự độc quyền đối với các doanh nghiệp nhà nước được hoạt động trong những lĩnh vực đặc biệt có liên quan chặt chẽ tới quốc kế, dân sinh, an ninh, quốc phòng. Với các quy định này cũng cho thấy pháp luật Việt Nam đã dự liệu, điều chỉnh trên phương diện rộng nhằm tạo lập môi trường kinh doanh mà trong đó các chủ thể tham gia bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Đồng thời, cũng cho thấy sự nỗ lực không ngừng của các cơ quan quản lý nhà nước trong xây dựng, thúc đẩy tự do kinh doanh.

Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng quy định cấm các trường hợp tập trung kinh tế nhằm thôn tính, lũng đoạn thị trường. Dân doanh Việt Nam đang ở trong giai đoạn từ tiểu chủ trở thành doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên không loại trừ khả năng thôn tính lẫn nhau để tập trung tư bản thành các tập đoàn lớn. Pháp luật của chúng ta đã có những quy định để hạn chế trường hợp tập trung kinh tế, nhằm bảo đảm một môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng. Việc pháp luật Việt Nam cấm các hành vi tập trung kinh tế cũng là những quy định phù hợp với luật pháp của các nước tiên tiến trên thế giới, một khi các doanh nghiệp tập trung tư bản để hình thành những khu vực, những lãnh thổ độc quyền thì khi đó không có cơ hội cho doanh nghiệp mới kinh doanh cùng ngành hàng tồn tại được. Và về cơ bản thì người tiêu dùng sẽ là những nạn nhân đầu tiên của tập trung kinh tế sau đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc quản lý kinh tế của các cơ quan có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng quy định rõ các thiết chế thi hành pháp luật kiểm soát độc quyền. Để thực hiện kiểm soát chống độc quyền một cách có hiệu quả cần tới nhiều thiết chế đa dạng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Thương mại có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Thương mại thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ.

2.2 NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH, NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ

2.2.1.    Pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh có sự chồng chéo, mâu thuẫn

“Trong những năm vừa qua, do chúng ta cố gắng làm biến đổi pháp luật một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới” [7, tr. 39], nên đã làm cho một số lĩnh vực pháp luật có sự chồng chéo, mâu thuẫn khiến cho các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn do chính vướng mắc phát sinh từ luật pháp.

Thứ nhất, sự chồng chéo trong quy định của pháp luật về hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp.

Hiện nay nhiều văn bản luật vẫn quy định trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh như Luật Doanh nghiệp, tạo nên những thủ tục hết sức phức tạp trong đầu tư kinh doanh. Ví dụ, trong Luật Đầu tư quy định: giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hoặc theo quy định của Luật về kinh doanh bảo hiểm, Bộ Tài chính là cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì trao quyền cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy phép đối với hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động; trong Luật Chứng khoán thì Ủy ban Chứng khoán là cơ quan cấp phép thành lập và hoạt động đối với công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán…

Như vậy, quy định chồng chéo giữa Luật doanh nghiệp và luật chuyên ngành tạo ra một hệ quả xấu đó là tiêu tốn thời gian, chi phí giao dịch cho việc xin thêm các thủ tục để doanh nghiệp được phép hoạt động. Bên cạnh đó, từ việc chồng chéo này tạo nên một cơ chế xin cho trong quản lý hành chính, tạo điều kiện cho những cá nhân được giao quyền có cơ hội trục lợi bất chính từ pháp luật.

Thứ hai, sự chồng chéo còn được thể hiện giữa các quy định giữa Bộ luật Dân sự và các luật chuyên ngành.

Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định mười ba loại hợp đồng dân sự thông dụng. Tuy nhiên, còn rất nhiều quan hệ dân sự khác, với nhiều loại hợp đồng dân sự rất thông dụng, chưa được nhắc đến hoặc không được chỉ rõ trong Bộ luật Dân sự, như: Hợp đồng bảo vệ (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ); Hợp đồng cấp tín dụng (Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 chỉ nhắc đến tên hợp đồng, mà không quy định cụ thể); Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản). Trong khi đó một số loại hợp đồng thì được quy định trùng lặp tại các đạo luật khác như: Hợp đồng bảo hiểm (Luật Bảo hiểm); Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Luật Đất đai); Hợp đồng vận chuyển hàng hóa (Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng);

Thứ ba, tồn tại mâu thuẫn trong Bộ luật Tố tụng dân sự với pháp luật chuyên ngành.

Trước đây, khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 còn hiệu lực quy định chủ thể của hợp đồng kinh tế là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá thể có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, sau này khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995 đã bỏ khái niệm “hợp đồng kinh tế”, tiếp sau đó là sự ra đời của Luật Thương Mại 2005 (mà đối tượng áp dụng bao gồm cả các đối tượng điều chỉnh của pháp lệnh Hợp đồng kinh tế trước đây), tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh đó là khi nào thì được coi là “Tranh chấp kinh doanh thương mại” để ưu tiên áp dụng Luật Thương Mại và khi nào thì gọi là “Tranh chấp dân sự” để áp dụng triệt để Bộ luật Dân sự 2005. Theo như quy định của Điều 2 Luật thương mại 2005 thì đối tượng điều chỉnh trong Luật Thương mại là thương nhân có hoạt động thương mại và tổ chức cá nhân khác hoạt động liên quan đến thương mại. Như vậy, chiếu theo quy định này thì bất kỳ cá nhân, tổ chức nào tham gia hoạt động thương mại đều được điều chỉnh bằng Luật thương mại (hoạt động thương mại theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”) [42]. Khi đó, tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể này sẽ được gọi là tranh chấp kinh doanh thương mại. Tiếp đó, theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự lại quy định những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án, cụ thể tại khoản 1 của điều này đã đưa ra điều kiện về hoạt động thương mại bao gồm: cá nhân, tổ chức có đăng ký  kinh doanh. Như vậy, hiểu theo quy định này thì chỉ có cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh phát sinh tranh chấp mới được coi là tranh chấp thương mại và áp dụng triệt để Luật Thương mại để giải quyết. Tuy nhiên, trong trường hợp cả hai chủ thể đều không có đăng ký kinh doanh nhưng lại thực hiện các hành vi thương mại thì lúc đó thiếu căn cứ để xác định là tranh chấp dân sự hay tranh chấp thương mại để tòa án xác định quan hệ tranh chấp và giải quyết, điều này gây khó khăn cho cả cơ quan tài phán và các đương sự.

2.2.2.    Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh không có tính khả thi

Theo quy định hiện hành thì tiêu chí doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã được đơn giản hóa theo hướng, doanh nghiệp, Hợp tác xã không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi có chủ nợ yêu cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản (Điều 3 Luật Phá sản). Tuy nhiên, quy định này vẫn chỉ là định tính, không phản ánh đúng tình trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản.

Trên thực tế, quy định của điều luật này là phù hợp nhưng không có tiêu chí cụ thể để hướng dẫn, nên dễ dẫn đến việc một số doanh nghiệp khi căn cứ vào điều luật này đã “lạm dụng” quyền nộp đơn nhằm gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp, các chủ nợ thay vì khởi kiện vụ án dân sự, kinh tế đòi nợ, họ lại làm đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản để đòi nợ (thậm chí với một khoản nợ rất nhỏ) và Tòa án không thể từ chối yêu cầu này. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp bị Tòa án áp dụng biện pháp tuyên bố phá sản. Mặt khác, những quy định về phá sản doanh nghiệp do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu cũng rất hiếm khi thực hiện được bởi việc này thường đe dọa sự đổ vỡ dây chuyền và thất nghiệp hàng loạt, uy hiếp trực tiếp tới ổn định trật tự, xã hội. Vì lợi ích chính trị, các cơ quan chủ quản từ Trung ương đến Địa phương đều né tránh việc doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của mình bị thụ lý và tuyên bố phá sản để che lấp dấu hiệu quản lý kinh tế yếu kém. Sự can thiệp chính trị thường mạnh hơn cả pháp luật, bởi vậy, phá sản doanh nghiệp nhà nước gần như không thể thực hiện, mặc dù Luật phá sản quy định rõ đối tượng điều chỉnh là mọi doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Số vụ phá sản được Tòa thụ lý rất ít, cho thấy hiện tượng vỡ nợ được giải quyết bằng vô số phương án khác một cách tự phát mà chưa theo mô hình phá sản. Những phương cách đó có lẽ bắt nguồn từ thói quen, văn hóa kinh doanh và truyền thống đối xử của người Việt Nam đối với người vỡ nợ. Tuy nhiên, cũng thấy rằng đó là một trong những hạn chế của Luật Phá sản.

Bên cạnh đó, những quy định về giải thể doanh nghiệp chưa phù hợp bởi giải thể doanh nghiệp là trường hợp doanh nghiệp chấm dứt các hoạt động kinh doanh hoặc bị buộc phải chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế việc giải thể doanh nghiệp cũng tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt đó là khâu giải quyết với cơ quan thuế, rất nhiều trường hợp do không thể kê khai và hoàn thiện thủ tục với cơ quan thuế nên chủ doanh nghiệp đành lựa chọn phương án là “treo” doanh nghiệp, không hoạt động cũng không giải thể. Đây cũng là thực trạng khá phổ biến và chưa có biện pháp hữu hiệu nào để các cơ quan quản lý doanh nghiệp giải quyết được những vướng mắc này. Theo thống kê của các cơ quan đăng ký kinh doanh thì hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp ảo, do doanh nghiệp không thể giải thể vì có vướng mắc tại khâu thủ tục giải thể. Bởi vậy, luật doanh nghiệp cần phải được bổ sung cho phù hợp với yêu cầu trong thực tiễn.

2.2.3.    Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh mang nặng dấu ấn của quản lý độc quyền hành chính

Xuất phát điểm từ một nền quản lý kinh tế quan liêu bao cấp cho nên nhiều chính sách của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư duy quản lý hành chính, cụ thể như sau:

Thứ nhất, các sáng kiến chính sách lớn chưa hẳn đã được bắt đầu từ nhu cầu bức thiết của xã hội thông qua tiếng nói của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân là những đại diện cho lợi ích của các cử tri, các nhóm, các tổ chức xã hội khác. Đôi khi các chính sách đó có thể là kết quả của “tư duy nhiệm kỳ”, “tư duy tăng trưởng” chạy theo thành tích, đôi khi là việc giành thuận lợi cho các cơ quan quản lý, đùn đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp hoặc nguy hiểm hơn là sự vận động của các nhóm lợi ích ngầm chi phối.

Thứ hai, các cơ quan hành chính từ Chính phủ, bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh phải tự đề xuất các sáng kiến luật, pháp lệnh (trên 75% số  lượng luật, pháp lệnh hiện hành) hoặc phải tự ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện các luật, pháp lệnh hoặc các nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tư, công văn, quyết định… “can thiệp” trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà thiếu một cơ chế kiểm soát, giám sát minh bạch, công khai, thường xuyên và có hiệu quả.

Thứ ba, nguy cơ bị thao túng chính sách cao hơn do các nhóm lợi ích khác nhau bắt tay với công chức, tổ chức vừa không có một cơ chế vận động công khai, giám sát chặt chẽ, cũng như không có tiêu chí để bảo vệ lợi ích công và lợi ích cộng đồng cũng như cào bằng với các nhóm lợi ích khác.

Thứ tư, tạo cơ hội cho liên kết lợi ích trong các cơ quan hành pháp (Bộ, ngành) theo kiểu tạo thuận lợi, lợi ích cho mình, đẩy khó khăn, bất lợi cho thị trường.

Thứ năm, Chính phủ (vừa với chức năng cơ quan hành chính quản lý đất nước, vừa với tư cách đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước thực hiện kinh doanh) chắc sẽ rất khó để có tiếng nói độc lập, khách quan, làm trọng tài khi có xung đột lợi ích và cuối cùng, quyền lực hành chính rất dễ bị lạm dụng, nguy cơ “tham nhũng” cao.

Nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, có quá nhiều văn bản (quy phạm pháp luật) hoặc hình thức khác do cơ quan hành chính các cấp ban hành, nên việc đánh giá theo các tiêu chí hợp pháp, hợp lý, chi phí…là rất khó khăn do có sự hạn chế về nguồn lực, thời gian, vai trò và vị trí của các tổ chức này. Thủ tục hành chính sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội, thị trường, đẩy chi phí hàng hóa, dịch vụ lên cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, làm mất cơ hội đầu tư, kinh doanh, giảm niềm tin vào môi trường kinh doanh. Gánh nặng của thủ tục hành chính không minh bạch còn là nguy cơ đẩy nền kinh tế theo hướng “kinh tế ngầm”, chứa nhiều rủi ro, bất ổn cho Nhà nước và xã hội, phân hóa giàu nghèo gia tăng (người nghèo, doanh nghiệp nhỏ và vừa bao giờ cũng chịu thiệt hại nhiều hơn so với người giàu và doanh nghiệp lớn, vốn có lợi thế hơn trong một môi trường thiếu minh bạch).

2.2.4. Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa cân đối được quyền lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật

Việc pháp luật chưa cân đối được quyền lợi cho các chủ thể tham gia trong một số quan hệ pháp luật thể hiện rõ ở các quy định của Luật phá sản về quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Theo Luật Phá sản thì chủ nợ có bảo đảm không được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 13). Điều này vừa không cho phép chủ nợ có bảo đảm sử dụng cơ chế phá sản để phòng vệ trong trường hợp họ thấy cách đó an toàn và hiệu quả hơn việc yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm. Việc Luật Phá sản năm 2004 quy định không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là xuất phát từ quan điểm cho rằng, đối với chủ nợ có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp hay của người thứ ba, vì vậy, việc doanh nghiệp, hợp tác xã có bị tuyên bố phá sản hay không thì lợi ích của họ vẫn được bảo đảm. Quy định này là không hợp lý. Thủ tục phá sản là một phương thức đòi nợ đặc biệt. Việc không cho chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ hữu hiệu này của các chủ nợ có bảo đảm.

Bên cạnh đó, nhằm phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp nhờ đó tòa án có thể can thiệp sớm nhằm giúp doanh  nghiệp phục hồi hoạt động, pháp luật của các nước đều quy định một số chủ thể như Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra chuyên ngành, tổ chức kiểm toán… trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ có liên quan đến doanh nghiệp, Hợp tác xã mà nhận thấy doanh nghiệp, Hợp tác xã đó đang lâm vào tình trạng phá sản thì có quyền mở thủ tục hoặc yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2004 đã không quy định cho các chủ thể này có quyền nộp đơn. Những quy định này đã làm giảm áp lực từ phía các cơ quan nhà nước lên doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài những vẫn ung dung tồn tại nếu chủ doanh nghiệp hoặc chủ nợ không nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.

Hơn nữa, chính việc chưa cân đối được lợi ích cho các chủ thể, pháp luật đã tạo ra môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh, tồn tại sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Như chúng ta đã biết, vai trò chủ đạo của Doanh nghiệp nhà nước không phải xa lạ, đã được khẳng định trong lý thuyết của nền kinh tế quản lý tập trung, từng thực hiện tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho đến lúc sụp đổ bởi nguyên nhân kinh tế của chính nó, còn ở ta buộc phải đổi mới bằng cách phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng tới nay vẫn giữ quan điểm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tuy nhiên nó bộc lộ quá nhiều hạn chế. Các tập đoàn kinh tế lớn, có vai trò mấu chốt được Nhà nước nắm giữ và quản lý nhằm tạo ra những “quả đấm thép” để thúc đẩy nền kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, do yếu kém trong khâu quản lý và xây dựng một mô hình chưa tương thích nên phần lớn các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Sự sụp đổ của Tập đoàn tàu thủy Việt Nam – Vinasin là minh chứng điển hình nhất cho sự thất bại của việc tạo ra những “siêu tập đoàn” bất chấp các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và đóng góp hết sức tích cho mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường thì chưa được đầu tư tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó.

2.2.5.    Quy định bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa đầy đủ, một số quy định chưa tương thích với pháp luật quốc tế

Sự phát triển kinh tế thị trường đã phát sinh nhiều hành vi tội phạm, đặc biệt là những loại tội phạm xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bảo vệ tự do kinh doanh, tuy nhiên pháp luật hình sự chưa quy định những nhóm tội phạm mới này để có chế tài xử lý. Ví dụ như: tội cấp phép dự án trái pháp luật, hay trong thời gian gần đây là sự xuất hiện của loại hình dịch vụ công ty thu hồi công nợ của tư nhân. Hình thức hoạt động của loại hình này thường huy động nhiều người sử dụng băng rôn, khẩu hiệu gây áp đảo con nợ để đạt được mục đích con nợ trả tiền. Hoặc các hành vi vi phạm liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử cũng đang diễn biến phức tạp với nhiều hành vi như: truy cập và sử dụng trái phép các thông tin cá nhân của người khác, dùng thủ thuật tinh vi trộm tiền từ thẻ tín dụng cá nhân… Trên thực tế những hành vi này hiện pháp luật hình sự nước ta chưa mô hình hóa thành các loại tội cụ thể nên dẫn đến không có chế tài để xử lý. Bởi vậy, cần phải bổ sung thêm một số loại tội phạm mới trong Bộ luật Hình sự.

Bên cạnh đó, việc thiếu những quy định pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh còn thể hiện ở việc pháp luật hiện hành tuy đã xác lập rất  nhiều hình thức tài phán để giải quyết tranh chấp, nhưng chỉ có Tòa án và Trọng tài mới có được thủ tục pháp lý chặt chẽ và tương đối hoàn chỉnh.  Pháp luật còn thiếu những thể chế và mô hình phù hợp để phát huy vai trò  của thương lượng, hòa giải. Chẳng hạn như hình thức pháp lý của thương lượng, hòa giải là gì? Giá trị pháp lý của chúng như thế nào? Tất cả những điều nêu trên làm cho thương lượng, hòa giải còn mang nặng tính tự phát, chưa phải là sự quan tâm thực sự và chỗ dựa tin cậy của các chủ thể kinh doanh ở nước ta.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa tương thích với pháp luật và tập quán quốc tế. Ở Việt Nam cũng chưa thừa nhận rộng rãi án lệ, tập quán, thông lệ thương mại là nguồn của pháp luật. Điều này gây khó khăn rất lớn khi các bên tham gia giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Bởi vậy, việc mở rộng nguồn của pháp luật, hay trong một số trường hợp cần được áp dụng án lệ, tập quán thương mại quốc tế là một trong những vấn đề cần sửa đổi của pháp luật.

2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH

  • Chính sách pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa được hoạch định thống nhất và đồng bộ.

Xuất phát từ văn hóa trọng nông, ức thương của dân tộc, nên việc thúc đẩy thương nghiệp ở nước ta luôn bị xem nhẹ, do đó kéo theo việc hệ thống pháp luật không có nhiều quy định để khuyến khích kinh doanh, trong thời gian dài pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta luôn bị xem nhẹ, có thể minh chứng điều này bằng cách kiếm tìm trong cổ luật rất ít các quy định về bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tầng lớp thương nhân bị coi là con buôn, và ít được coi trọng.

Đến trước năm 1945, pháp luật Việt Nam xây dựng theo mô hình của pháp luật Pháp, sau năm 1945 tới trước năm 1959 vẫn căn bản dựa trên mô hình này, từ năm 1959 đến năm 1992 chúng ta xây dựng mô hình pháp luật Xô viết, đặc điểm của hệ thống pháp luật này đó là nền kinh tế được tập trung trong tay Nhà nước, các doanh nghiệp, xí nghiệp chủ chốt của nền kinh tế đều do Nhà nước quản lý, bởi vậy trong suốt thời gian dài chúng ta không xây dựng được hệ thống pháp luật về doanh nghiệp, thành phần kinh tế tư bản, tư nhân bị coi nhẹ và không được khuyến khích phát triển. Từ mô hình phát triển kinh tế, kéo theo mô hình pháp luật để bảo vệ cho nền kinh tế đó nên trong thời kỳ này quyền tự do kinh doanh chưa được pháp luật thừa nhận rộng rãi, các chính sách pháp luật đưa ra thiếu thống nhất, chưa cân đối được quyền lợi giữa các chủ thể, tập trung chủ yếu vào các quy định về doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Từ sau năm 1992 đến nay chúng ta xây dựng pháp luật để quản lý xã hội phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta đã không có một mô hình pháp luật mẫu để áp dụng, như chúng ta đã biết sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa kéo theo đó là những bất cập, tồn tại mà pháp luật xã hội chủ nghĩa để lại trong đó có những quy định về bảo vệ tự do kinh doanh. Nhận thức được hạn chế, tồn tại về phát huy giá trị của quyền tự do kinh doanh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương đổi mới hệ thống pháp luật, trong đó chú trọng đến bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, chúng ta không sáng tạo ra được một mô hình pháp luật nào tương thích để điều chỉnh các quan hệ kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, pháp luật rơi vào tình trạng thiếu minh bạch, không gần gũi với thực tế và chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội tương đối thấp.

  • Chưa thẩm tra đầy đủ tính logic của các đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành.

Trên thực tế, việc soạn thảo văn bản luật thường do các Bộ chủ quản thuộc Chính phủ đảm nhận, sau khi hoàn thành việc soạn thảo sẽ được thẩm tra và đệ trình lên Quốc hội để thông qua. Tuy nhiên, ngay trong quá trình soạn thảo, thẩm tra và thông qua các đạo luật chúng ta đã chưa đánh giá hết được tính logic, trật tự, thứ bậc đối của đạo luật sắp ban hành đối với các đạo luật khác nên dẫn đến tình trạng pháp luật có sự chồng chéo, mâu thuẫn như hiện nay. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi, các đạo luật lại cần được hướng dẫn của nghị định hoặc thông tư, trong nhiều trường hợp một số điều khoản được hướng dẫn trong nghị định, Thông tư đi ngược lại với tinh thần của luật, đây cũng là một nguyên nhân khiến cho pháp luật của nước ta mâu thuẫn dẫn đến việc khó thực thi cho cả cơ quan quản lý và đối tượng bị quản lý.

  • Quy trình, kỹ thuật lập pháp còn hạn chế.

Hiện nay, quy trình lập pháp của nước ta đã được luật hóa bằng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ vào chủ thể ban hành có thể chia quy trình lập pháp thành hai giai đoạn đó là giai đoạn thuộc Chính Phủ và giai đoạn thuộc Quốc hội. Tuy nhiên, do kỹ thuật lập pháp, kỹ thuật pháp điển hóa tại các Ban soạn thảo thuộc Chính phủ còn hạn chế dẫn đến tính khả thi, tính dự báo của pháp luật thấp và không thuyết phục được các Đại biểu Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, việc sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật cũng là nguyên nhân khiến cho pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta mâu thuẫn bởi muốn sửa đổi nhóm quy định nào  trong pháp luật thì cơ quan chủ quản thành lập một ban soạn thảo riêng và chỉ sửa đổi nhóm quan pháp luật đó, hệ hệ quả của cách làm này là tính đồng bộ, tính gắn kết về mặt nội dung giữa các văn bản pháp luật là rất yếu, đôi khi chúng mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau, tạo thành lỗ hổng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về cùng một vấn đề.

  • Hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta còn tản mạn.

Trên thực tế, pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta xảy ra tình trạng luật ra đời chờ Nghị định và Nghị định lại chờ Thông tư để hướng dẫn mới thi hành được. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do luật được xây dựng chung chung, khi áp dụng trên thực tế thiếu tính khả thi, khó áp dụng bởi vậy cần sự hướng dẫn chi tiết hơn từ nghị định và thông tư. Từ việc chờ hướng dẫn nên khi áp dụng Nghị định, Thông tư chính là chuẩn mực để thay thế luật, điều này là trái với nguyên tắc chung khi thực thi pháp luật. Tiếp đó, do việc không chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện nên các cơ quan đùn đẩy, lảng tránh trách nhiệm, đòi hỏi các cơ quan khác phải chia sẻ trách nhiệm. Bởi vậy, dẫn đến tình trạng luật chuyên ngành luật được điều chỉnh bởi vô số các văn bản khác nhau, tạo nên sự không thống nhất, tản mạn và trong nhiều trường hợp các quy định của luật bị vô hiệu hóa bằng nghị định, thông tư hướng dẫn.


Trên đây là mẫu chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Quyền Tự Do Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Theo Pháp Luật Việt Nam được chia sẻ miễn phí các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây. Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên, nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo