Quyền Sử Dụng Hạn Chế Bất Động Sản Liền Kề Theo Pháp Luật

Rate this post

Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Quyền Sử Dụng Hạn Chế Bất Động Sản Liền Kề Theo Pháp Luật dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Quyền Sử Dụng Hạn Chế Bất Động Sản Liền Kề Theo Pháp Luật được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO THỰC TẬP: QUYỀN SỬ DỤNG HẠN CHẾ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ THEO PHÁP LUẬT

  1. Lý do chọn đề tài

Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được quy định trong BLDS của nước ta với đặc thù là quyền sở hữu của tư nhân đối với đất đai không được thừa nhận và theo quy định của Hiến pháp thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Tuy nhiên pháp luật về đất đai của Việt Nam quy định người sử dụng đất có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế quyền sử dụng đất. Việc thực hiện các quyền này phải tuân theo các quy định của BLDS 2015 và pháp luật về đất đai.

Nghiên cứu về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn sâu sắc. Pháp luật dân sự của Việt Nam trước đây cũng như của nhiều nước trên thế giới quy định quyền địa dịch trong điều kiện ghi nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Pháp luật Việt Nam hiện nay không thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai nhưng lại quy định quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề. Đây là sự khác biệt mang tính đặc thù trong pháp luật Việt Nam cần được làm sáng tỏ. Thông qua đề tài: “Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, em mong muốn góp phần lý giải về lý luận cũng như thực tiễn trong pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới khi xây dựng và áp dụng chế định này

  1. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu tổng quát

Trên cơ sở phân tích lịch sử hình thành và phát triển của quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề và các quy định pháp luật liên quan nhằm hệ thống các khái niệm về bất động sản và quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề;

So sánh với các quy định tương đồng trong pháp luật của một số nước trên thế giới để đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định tương ứng trong luật thực định;

Đóng góp cho việc sửa đổi BLDS 2015 sắp tới và áp dụng các quy định của BLDS 2015 để giải quyết những tranh chấp trong thực tế.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Để thực hiện mục tiêu đó, khóa luận đã tập trung nghiên cứu những vấn đề cụ thể như sau:

– Quan niệm về bất động sản trong pháp luật của một số nước trên thế giới và Việt Nam;

– Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo pháp luật một số nước và pháp luật Việt Nam trước khi ban hành BLDS 2015;

– Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề trong BLDS 2015 và một số quy định liên quan chặt chẽ với nó;

– Nội dung quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được quy định trong BLDS 2015;

– Thực trạng áp dụng pháp luật về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề và hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

“Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là một đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về phần thứ 2 của BLDS với tiêu đề: “Những quy định khác về quyền sở hữu” và nghiên cứu các vụ tranh chấp về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, với khuôn khổ của khóa luận thạc sĩ luật học tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu các quy định của pháp luật quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề một cách hệ thống và đầy đủ, tạo tiền đề lý luận cũng như có cách hiểu thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật vào giải quyết các tranh chấp thực tế về quyền này hiện nay.

  1. Giả thuyết khoa học

Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn đề lý luận về bất động sản và quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, tạo cơ sở khoa học để hoàn thiện chế định quyền sở hữu trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN

Khóa luận là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và sinh viên, học viên chuyên nghành luật dân sự cũng như các cơ quan áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề. Các kết luận, ý kiến được trình bày trong luận án có thể giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện chế định quyền sở hữu nói chung và quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề nói riêng.

  1. Phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgíc để lý giải nguyên nhân các hiện tượng trong mối quan hệ giữa quyền sở hữu bất động sản, chuyển dịch quyền đối với bất động sản với quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.

Bằng phương pháp phân tích, so sánh để tìm sự đồng nhất cũng như khác biệt trong pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó thấy được sự kế thừa, phát triển, tính đặc thù trong quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề pháp luật Việt Nam, từ đó liên hệ đến thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành của pháp luật để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề và nêu ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

  1. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 3 chương:

  • Chương 1: Những vấn đề chung về bất động sản và quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.
  • Chương 2: Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo quy định của BLDS 2015.
  • Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ QUYỀN SỬ DỤNG HẠN CHẾ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ

1.1. Khái niệm bất động sản

1.1.1. Khái niệm bất động sản theo pháp luật một số nước

1.1.2. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về bất động sản

1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến bất động sản liền kề

1.2.1. Khái niệm bất động sản liền kề

1.2.2. Khái niệm quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

1.2.3. Quy chế pháp lý về ranh giới giữa các bất động sản liền kề

1.2.4. Khái niệm bất động sản bị vây bọc

1.3. Quyền đối với bất động sản liền kề

Chương 2. QUYỀN SỬ DỤNG HẠN CHẾ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

2.1. Căn cứ phát sinh và chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

2.1.1. Căn cứ phát sinh quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

2.1.2. Căn cứ chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

2.2. Nội dung quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

2.2.1. Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề

2.2.2. Quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản liền kề

2.2.3. Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề

2.2.4. Quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác

Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG HẠN CHẾ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ

3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng

hạn chế bất động sản liền kề

3.1.1. Thực tiễn áp dụng chế định quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo

thủ tục hành chính

3.1.2. Thực tiễn áp dụng chế định quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề để

giải quyết những tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự

3.2. Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật

về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ QUYỀN SỬ DỤNG HẠN CHẾ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ

1.1. Khái niệm bất động sản

1.1.1. Khái niệm bất động sản theo pháp luật một số nước

Việc phân loại tài sản thành bất động sản và động sản có nguồn gốc từ cổ luật La Mã, theo đó bất động sản không chỉ là đất đai, của cải trong lòng đất mà còn là tất cả những gì được tạo ra do sức lao động của con người trên mảnh đất. Bất động sản bao gồm các công trình xây dựng, mùa màng, cây trồng… và tất cả những gì liên quan đến đất đai hay gắn liền với đất đai, những vật trên mặt đất cùng với những bộ phận cấu thành lãnh thổ.

Một trong những cách phân loại vật được xem là chính thống, quan trọng nhất bắt nguồn từ cổ luật La Mã và cho đến nay vẫn được ghi nhận trong các BLDS của nhiều nước trên thế giới. Tài sản được phân chia thành động sản và bất động sản. Tuy nhiên, tiêu chí để phân loại cũng như quan điểm phân loại trong các BLDS của các nước có những điểm khác nhau, đẫn đến những tài sản nào được coi là động sản, bất động sản cũng khác nhau.

Pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều thống nhất ở chỗ coi bất động sản gồm đất đai và những tài sản gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có những nét đặc thù riêng thể hiện ở quan điểm phân loại và tiêu chí phân loại, tạo ra cái gọi là khu vực giáp ranh giữa hai khái niệm bất động sản và động sản.

Khoản 1 Điều 86 BLDS Nhật Bản có hiệu lực từ năm 1889 quy định: “Đất đai và các vật gắn liền với đất là bất động sản” [32]. Đất được biểu hiện là một diện tích nhất định với không gian về chiều cao và bề sâu (đá, cát, sỏi, phù sa là một phần của đất). Vật gắn liền với đất là những vật liên quan chặt chẽ với đất.

Điều 100 BLDS&TM Vương quốc Thái Lan có hiệu lực từ năm 1925 quy định: “Bất động sản là đất đai và những vật gắn liền với đất đai hoặc hợp thành một thể thống nhất với đất đai. Nó bao gồm cả những quyền gắn với việc sở hữu đất đai” [34].

Hầu hết các nước đều coi bất động sản là đất đai và những tài sản có liên quan đến đất đai, không tách rời với đất đai, được xác định bởi vị trí địa lý của đất như Điều 517, 518 Luật Dân sự Cộng hoà Pháp, Điều 86 Luật Dân sự Nhật Bản, Điều 130 Luật Dân sự Cộng hoà Liên bang Nga, Điều 94, 96 Luật Dân sự Cộng hoà Liên bang Đức. Tuy nhiên, BLDS Liên bang Nga quy định cụ thể bất động sản là mảnh đất chứ không phải là đất đai nói chung. Việc ghi nhận này là hợp lý bởi đất đai nói chung là bộ phận của lãnh thổ, không thể là đối tượng của giao dịch dân sự.

Mặt khác, mỗi nước lại có quan niệm khác nhau về những tài sản gắn liền với đất đai được coi là bất động sản. Điều 520 BLDS Pháp quy định: “Mùa màng chưa gặt, trái cây chưa bứt khỏi cây là bất động sản, nếu đã bứt khỏi cây được coi là động sản”[31]. Tương tự, quy định này cũng được thể hiện trong BLDS Nhật Bản. Trong khi đó, Điều 100 BLDS&TM Thái Lan quy định: “Bất động sản là đất đai và những vật gắn liền với đất đai, bao gồm cả những quyền gắn với việc sở hữu đất đai” [34] và pháp luật dân sự Đức đưa ra khái niệm bất động sản bao gồm đất đai và các tài sản gắn với đất.

Như vậy, có hai cách diễn đạt chính: thứ nhất, miêu tả cụ thể những gì được coi là gắn liền với đất đai và do vậy là bất động sản; Thứ hai, không giải thích rõ về khái niệm này và dẫn tới các cách hiểu rất khác nhau về những tài sản gắn liền với đất đai.

Xem Thêm ==> Viết chuyên đề thực tập , giá rẻ 

BLDS Nga năm 1994 quy định về bất động sản đã có những điểm khác biệt đáng chú ý so với các BLDS truyền thống. Điều 130 của Luật này một mặt, liệt kê tương tự theo cách của các BLDS truyền thống, mặt khác, đưa ra khái niệm chung về bất động sản là “những đối tượng mà dịch chuyển sẽ làm tổn hại đến đối tượng và mục đích sử dụng của nó” [17, tr22] trong đó bao gồm rừng, vườn cây lâu năm, nhà ở và các công trình xây dựng. Bên cạnh đó, luật này còn liệt kê những vật không liên quan gì đến đất đai như tàu biển, máy bay, phương tiện vũ trụ… cũng là các bất động sản.

Như vậy, khái niệm bất động sản rất rộng, đa dạng và được quy định cụ thể bằng pháp luật của mỗi nước và có những tài sản có quốc gia cho là động sản, trong khi quốc gia khác lại liệt kê vào danh mục bất động sản. Việc phân loại tài sản thành động sản hay bất động sản theo pháp luật của đa số các quốc gia khác trên thế giới đều dựa vào tính chất di dời hay không di dời được của tài sản. Ngoài ra, một số tài sản được quy định là bất động sản do tính chất, công dụng của tài sản hoặc do pháp luật mỗi nước quy định.

1.1.2. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về bất động sản

1.1.2.1. Quy định của pháp luật việt nam về bất động sản trước khi ban hành BLDS 2005

Trong cổ luật Việt Nam không có sự phân biệt tài sản thành động sản và bất động sản, nhưng đất đai được coi là một loại tài sản đặc biệt, bởi đất đai được coi là tài sản có giá trị nhất. Từ thời Lý – Trần cũng như sau này các quy định về sở hữu tài sản trong Quốc triều Hình luật cũng như trong Hoàng Việt luật lệ chủ yếu đề cập đến đất đai hoặc các tài sản liên quan đến đất đai. Những quy định này xuất phát từ điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam vào thời kỳ lịch sử đó khi mà nền nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở quy định nguyên tắc chung là Nhà nước (vua) thực hiện quyền sở hữu tối cao đối với đất đai. Các quy định của pháp luật chủ yếu bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Việc phân ruộng đất thành công điền (ruộng đất công thuộc sở hữu của nhà nước, của làng xã) và tư điền (ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân) thể hiện rõ quan niệm này. Các hình thức sở hữu khác về đất đai vẫn tồn tại, tuy nhiên, bao trùm lên tất cả là quyền sở hữu của Nhà nước. Mức độ của quyền lực thực tế giảm dần từ sở hữu nhà nước đến sở hữu làng xã và sở hữu tư nhân.

Thời kỳ Pháp thuộc, Nước Việt Nam chia thành 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Mỗi kỳ áp dụng các BLDS khác nhau. Dân luật giản yếu Nam Kỳ ban hành ngày 26/03/1983 được áp dụng tại Nam Kỳ. Bắc Kỳ áp dụng BLDS Bắc Kỳ thay thế cho Hoàng Việt luật lệ. Tại Trung Kỳ áp dụng Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật ban hành vào các ngày 13/07/1936 ; 08/01/1938; 28/09/1939, BLDS giản yếu cùng với BLDS Pháp. Riêng ở Nam Kỳ sử dụng đồng thời Dân luật giản yếu Nam Kỳ và các quy định của Luật Hồng Đức, Luật Gia Long cho đến khi ban hành BLDS Sài Gòn ngày 28/06/1972.

Điểm thống nhất trong các BLDS có hiệu lực ở Việt Nam trước đây, bất động sản và động sản chỉ được quy định theo dạng liệt kê. Điều 312 Dân luật Sài Gòn quy định: “Tài sản chia làm động sản và bất động sản” [30, Điều 312 ] sau đó liệt kê những tài sản nào là bất động sản. BLDS Bắc Kỳ trực tiếp liệt kê bất động sản mà không quy định tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Điều 449 BLDS Bắc Kỳ quy định: “Bất động sản có ba thứ, hoặc bởi tính chất của nó, hoặc bởi mục đích của nó hoặc bởi quyền sử dụng vì cớ gì”. [2]

Điều 363 DLSG tương tự như quan niệm về bất động sản trong BLDS Pháp. Bất động sản được quy định tại điều 517 BLDS Pháp: “Tài sản là bất động sản bởi tính chất hoặc mục đích sử dụng của chúng hoặc bởi đối tượng mà chúng gắn liền với nó ” [31, Điều 517]. Điều 363 DLSG quy định: “Bất động sản chia làm ba loại: Bất động sản vì bản chất tự nhiên; Bất động sản vì công dụng riêng; Bất động sản vì có đối tượng trên bất động sản” [30, Điều 363]. Quan niệm về bất động sản của DLSG không có sự khác biệt đáng kể so với BLDS Pháp, đều chia bất động sản thành 3 loại căn cứ vào bản chất tự nhiên hoặc do công dụng của chúng hoặc bởi đối tượng mà chúng gắn liền với nó.

Như vậy, khái niệm bất động sản trong BLDS Pháp, BLDS Bắc Kỳ, BLDS Sài Gòn không có sự khác biệt đáng kể bởi vì đều quy định bất động sản theo tính chất tự nhiên, bất động sản do công dụng, bất động sản do có đối tượng trên bất động sản.

Thứ nhất, đối với bất động sản do bản chất tự nhiên, Điều 373 DLSG quy định nhà ở là bất động sản nhưng đã loại ra một số loại nhà ở có thể tháo ra được và các nhà cửa bằng vật liệu nhẹ tranh, tre, cây, tôn không có nền móng vững chắc hoặc Khoản 2 Điều 450 BLDS Bắc Kỳ quy định tương tự nhà cửa là bất động sản trừ những nhà lá có thể tháo ra, lắp lại được. Quy định này có sự khác biệt đáng kể so với quy định về các tài sản là bất động sản trong BLDS Pháp. Sự khác biệt này có thể giải thích mặc dù BLDS Sài Gòn, BLDS Bắc Kỳ được xây dựng trên cơ sở tiếp thu thành tựu lập pháp của BLDS Pháp nhưng có sự cải biến cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam thời kỳ này. Do điều kiện kinh tế Việt Nam chủ yếu là làm nông nghiệp nên nhà ở nông thôn chủ yếu là nhà dựng tạm có lợp lá nên các loại nhà ở này không có kết cấu bền vững, cố định và theo tính chất tự nhiên là có thể di dời được nên không thể coi loại nhà ở này là bất động sản do bản chất tự nhiên.

Như vậy, bất động sản do bản chất tự nhiên được xác định là đất đai (ruộng đất, điền địa), và những vật gắn liền với đất đai như công trình xây dựng kiên cố trên đất, cây cối có rễ ăn vào đất cùng hoa lợi từ các cây cối đó. Nếu vật gắn liền với đất đai mà mất đi thuộc tính gắn vào đất, có thể bứt ra khỏi đất thì không được coi là bất động sản nữa.

Thứ hai, bất động sản do công dụng (dụng ích): Các BLDS trước khi ban hành BLDS năm 1995 đều liệt kê những tài sản bản chất là động sản nhưng do sử dụng vào mục đích canh tác mà chúng trở thành bất động sản. Điều 522 BLDS Pháp quy định: “Các súc vật giao cho tá điền hay người quản lý dùng vào canh tác được coi là bất động sản nhưng nếu giao cho một người khác không phải là tá điền hay người quản lý trang trại chăn nuôi thì được coi là động sản”[31, Điều 522]. Quy định này không có trong BLDS Bắc Kỳ và DLSG. DLSG quy định một bất động sản do công dụng phải là các động sản mà chủ sở hữu đã gắn vào một bất động sản chính có tính chất tự nhiên không thể di dời được mà không thể tháo ra được mà không làm hư hại hay mất vẻ mỹ quan của nhà cửa hay cơ sở đó. Bất động sản vì công dụng là một bộ phận của bất động sản chính hay có thể coi bất động sản theo tính chất là vật chính, các bất động sản theo công dụng là vật phụ. Bởi vậy, khi chuyển giao nghĩa vụ giao vật chính thì phải chuyển giao vật phụ kèm theo. Người thừa kế di sản là bất động sản do bản chất tự nhiên thì cũng được hưởng luôn các bất động sản vì mục đích.

Thứ ba, bất động sản do có đối tượng trên bất động sản: Loại bất động sản này do pháp luật quy định. Các bất động sản do có đối tượng trên bất động sản bao gồm các vật quyền trên bất động sản và quyền khởi kiện để đòi lại một bất động sản.

BLDS Việt Nam được Quốc hội nước ta thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực từ ngày 01/7/1996 đã đưa ra khái niệm bất động sản sau đó liệt kê những tài sản nào là bất động sản tại Điều 181.

Bất động sản là các tài sản không di, dời được bao gồm:

  1. Đất đai;
  2. Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó;
  3. Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
  4. Các tài sản khác do pháp luật quy định. [20, Điều 181].

Như vậy, căn cứ vào quy đinh về bất động sản trong BLDS năm 1995 thì tính chất không di, dời được được coi là căn cứ xác định tài sản được coi là bất động sản. Tuy nhiên, căn cứ vào phần liệt kê những tài sản được coi là bất động sản ở các điểm a, b, c, d, khoản 1 điều 181 BLDS năm 1995 chúng ta có thể nhận thấy tính chất không di, dời được lại không phải là tiêu chí của tất cả các bất động sản đó.

Xét về phương diện vật lý, chỉ đất đai mới là tài sản không di, dời được. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, đất đai nói chung không phải là đối tượng chuyển dịch trong giao lưu dân sự. Đất đai ở đây phải được hiểu là từng mảnh đất, dải đất nói riêng chứ không phải đất đai nói chung, gắn với nó là quyền sử dụng mảnh đất theo quy định của pháp luật Việt Nam. Người được giao quyền sử dụng mảnh đất, dải đất đó có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế quyền sử dụng đất. Pháp luật Việt Nam quy định sở hữu đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước đại diện cho toàn dân để thực hiện quyền sở hữu về đất đai; Nhà nước có quyền quyết định mục đích sử dụng đất, hạn mức giao đất, thời hạn sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, định giá đất, quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; Nhà nước có quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất. TS. Phạm Công Lạc cho rằng: “Chính vì vậy quyền của người sử dụng đất đã bị hạn chế rất nhiều so với quyền sở hữu các loại tài sản khác. Bởi vậy, đất đai được coi như đối tượng bị hạn chế trong lưu thông dân sự”. [17, tr42].

Căn cứ quy định về bất động sản trong BLDS năm 1995 thì đất đai là bất động sản đầu tiên còn nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai được coi là bất động sản phái sinh từ đất đai. Nhà được hiểu là “công trình xây dựng có mái che, có tường vách để ở hay dùng vào việc gì đó ” [30, tr667]. Cho đến nay, lần đầu tiên khái niệm nhà ở đã được các nhà làm luật đưa ra trong Luật Nhà ở số: 56/2005/QH11 do Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 như sau : “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân ” [26, Điều 1]. Về công trình xây dựng gắn liền với đất đai, Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 quy định:

Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông, công trình hạ tầng kỹ thuật và công trình khác [27, Điều 3].

Ngoài bất động sản là nhà ở và công trình xây dựng gắn liền với đất đai thì tại điểm c khoản 1 điều 181 BLDS 1995 còn quy định những tài sản khác gắn liền với đất đai cũng được coi là bất động sản. Mặc dù những tài sản này có thể di, dời được về mặt cơ học nhưng do thuộc tính gắn liền với đất đai mà chúng trở thành bất động. Chính vì vậy, những tài sản này chỉ được coi là bất động sản khi nó gắn liền với đất đai do vị trí tự nhiên, nếu tách ra khỏi đất đai thì các tài sản này trở thành động sản ( khai thác quặng, cây bị chặt, mùa màng thu hoạch ….. )

Bên cạnh những tài sản là bất động sản kể trên thì những tài sản khác có giá trị kinh tế lớn được coi là bất động sản như tàu bay, tàu biển là đối tượng thế chấp và được coi là bất động sản.

Tóm lại, quy định về bất động sản trong pháp luật dân sự Việt Nam đều coi đất đai là bất động sản thứ nhất, chính trong mối quan hệ với đất mà một tài sản được coi là di dời được hoặc không di dời được và tùy theo tính chất đó được gọi là động sản hay bất động sản. Ngoài ra, pháp luật còn quy định những tài sản khác là bất động sản do giá trị của tài sản đó cũng như ý nghĩa của tài sản đó đối với xã hội. Việc quan niệm tài sản là bất động sản hay động sản không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn sâu sắc, là cơ sở để phân định những quy chế pháp lý đối với bất động sản đồng thời là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp về bất động sản giữa các chủ thể với nhau.

1.1.2.2. Quy định về bất động sản trong BLDS 2005

Kế thừa và phát triển những quy định về bất động sản trong các BLDS trước đó, Điều 174 Khoản 1 BLDS 2005 quy định bất động sản gồm:

a, Đất đai;

b, Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; c, Các tài sản khác gắn liền với đất đai;

d, Các tài sản khác do pháp luật quy định. [21, Điều 174].

Qua liệt kê nêu trên, có thể thấy rõ cách quan niệm về bất động sản trong BLDS 1995 và BLDS 2005 về cơ bản không khác nhau ngoài việc BLDS 2005 đã loại bỏ cụm từ “không di, dời được” trong quy định về bất động sản trong BLDS 1995.

Tương tự như quy định về bất động sản trong BLDS 1995, pháp luật Việt Nam thừa nhận các loại bất động sản sau:

Thứ nhất, bất động sản không thể di dời được về mặt cơ học, không thay đổi được vị trí địa lý do bản chất tự nhiên của nó, bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai (trừ nhà làm bằng vật liệu thân gỗ, cây leo, chất bổi…..không có nền móng vững chắc, có thể dịch chuyển thủ công như gánh, gồng, mang, vác); Những sản vật mà con người tác động trên đất, lao động trên đất mà có. Ví dụ hoa lợi, lợi tức gắn liền với đất, như cây cối, hoa màu chưa thu hoạch, trái cây chưa hái và các tài sản khác trên đất [16, tr10]. Tuy nhiên, những tài sản này được coi là bất động sản khi chúng gắn liền với đất, nếu bứt chúng ra khỏi đất thì chúng trở thành động sản.

Thứ hai, các động sản trở thành bất động sản vì công dụng, mục đích sử dụng. Đó là các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng. Ví dụ như hệ thống điện, nước được lắp đặt trong nhà, bể cá, tủ bày các vật dụng được gắn vào tường nhà một cách kiên cố. Việc xác định một động sản trở thành bất động sản khi một động sản được gắn vào, đặt vào một bất động sản. Việc một động sản được đặt vào, gắn vào một bất động sản giúp hoàn thiện, làm tăng giá trị sử dụng, giá trị kinh tế của nhà ở, công trình xây dựng đó, đồng thời, việc gắn vào được hiểu là gắn vào một cách kiên cố, việc tháo dỡ động sản ra khỏi bất động sản mà chúng gắn vào có thể làm giảm giá trị sử dụng, hư hại bất động sản hoặc làm mất đi tính thẩm mỹ của bất động sản đó.

Thứ ba, bất động sản do pháp luật quy định: Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, khi cần thiết, bằng các văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác có giá trị kinh tế lớn là bất động sản như tàu bay, tàu thủy, phương tiện hàng không, cổ phiếu…. là bất động sản. Việc xác định những tài sản này được coi là bất động sản trước hết vì giá trị kinh tế và ý nghĩa của tài sản đó đối với xã hội, đồng thời là cơ sở quy định các quy chế pháp lý đối với những tài sản đó, theo đó, đối với những tài sản là bất động sản, về nguyên tắc, người có bất động sản thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu để được thừa nhận là chủ sở hữu của bất động sản đó.

Tài sản được coi là bất động sản trong hệ thống pháp luật nước ta được chuyển hoá từ cách liệt kê thuần tuý những tài sản được coi là bất động sản đến việc phân định thông qua việc mô tả tính chất của tài sản được coi là bất động sản và kết hợp với việc liệt kê cùng mô tả tính chất chung của bất động sản. Như vậy, đất đai đứng đầu trong danh mục tài sản được xác định là bất động sản, đồng thời là căn cứ để xác định các tài sản khác là bất động sản, bởi theo quy định trên, đặc trưng để xác định các bất động sản trước tiên là thuộc tính gắn liền với đất đai của tài sản đó. Chính trong mối quan hệ với đất đai mà một tài sản được coi là di dời được hoặc không di dời được và tùy theo tính chất đó được gọi là bất động sản hay động sản. Tuy nhiên BLDS 2005 đã liệt kê mở những tài sản được coi là bất động sản chứ không liệt kê khép kín như tại điều 163 BLDS 2005. Hơn nữa, các quy định về bất động sản trong pháp luật của Việt Nam là khái niệm mở mà cho đến nay chưa có các quy định cụ thể danh mục các tài sản này. Như vậy, bất động sản có thể là vật, có thể là quyền tài sản, nếu chúng gắn liền với đất đai.

1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến bất động sản liền kề

1.2.1. Khái niệm bất động sản liền kề

Trong BLDS 2005 không ghi nhận cụ thể khái niệm bất động sản liền kề, tuy nhiên bất động sản liền kề có thể được hiểu là bất động sản có sự tiếp giáp nhau về ranh giới giữa các bất động sản. Do vị trí tự nhiên hay do những điều kiện kinh tế – xã hội, do phong tục tập quán nên các bất động sản trong quá trình tồn tại đều có sự tiếp giáp với các bất động sản xung quanh. Hai bất động sản được coi là liền kề với nghĩa pháp lý để có thể thiết lập quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề chỉ khi giữa chúng thuộc các chủ sở hữu khác nhau và giữa chúng có một ranh giới chung.

Theo Từ điển Luật học thì bất động sản liền kề là: “Bất động sản cùng loại, sát nhau và giữa chúng tồn tại một ranh giới phân cách về địa lý cũng như pháp lý” [3, tr52]. Pháp luật Việt Nam quy định, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho cá nhân và tổ chức sử dụng ổn định, lâu dài và nguời sử dụng đất có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp và thừa kế quyền sử dụng đất. Vì vậy, mỗi mảnh đất được giao luôn tiếp giáp với nhau, tách biệt nhau theo ranh giới dùng để phân biệt bất động sản này đối với bất động sản khác hay với các bất động sản xung quanh. Không thể có một mảnh đất tồn tại độc lập mà không có sự tiếp giáp đối với mảnh đất khác, đây là sự tồn tại khách quan xuất phát từ hạn điền cũng như thẩm quyền giao đất. Các mảnh đất tiếp giáp với nhau tách biệt nhau theo ranh giới dùng để phân cách bất động sản này với bất động sản khác hay với các bất động sản xung quanh. Trên cơ sở xác định các bất động sản được coi là liền kề và giữa chúng tồn tại ranh giới mới có thể xác định được bất động sản nào phải chịu phiền lụy nhằm phục vụ cho bất động sản kia. Một sự phiền lụy trên một bất động sản là dạng quyền của người thứ ba trên một bất động sản. Bởi vậy, khi có bất kì một sự phiền lụy trên một bất động sản có thể dẫn tới giá trị tài sản đó bị giảm sút đáng kể và việc thực hiện quyền của chủ sở hữu bất động sản chịu sự phiền lụy cũng có những hạn chế nhất định.

Nếu bất động sản liền kề là những bất động sản có chung ranh giới thì bất động sản xung quanh được hiểu là những bất động sản có liên quan đến bất động sản bị vây bọc trong một hay nhiều mối quan hệ nhất định khi khai thác, sử dụng bất động sản đó. Theo TS. Phạm Công Lạc thì:

Một bất động sản được coi là liền kề với một bất động sản khác và có thể phải chịu sự hạn chế về quyền đối với bất động sản chịu dịch quyền khi chúng thuộc bất động sản về bản chất do tính không di dời được cùng loại và giữa chúng tồn tại một ranh giới về địa lý cũng như về pháp lý [17, tr58].

Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật

Một bất động sản có thể tồn tại cả hai loại ranh giới: ranh giới địa lý và ranh giới pháp lý. Ranh giới địa lý là ranh giới thực tế được các bên xác định căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới pháp lý là ranh giới được thể hiện trên bản đồ địa chính và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Quan niệm bất động sản liền kề là bất động sản có sự tiếp giáp với nhau về ranh giới địa lý hoặc ranh giới pháp lý thì có nghĩa không bao gồm bất động sản xung quanh. Nhưng trong một số trường hợp, bất động sản xung quanh cũng là đối tượng chịu sự phiền lụy trong quá trình khai thác công dụng của một bất động sản khác, ví dụ như để thực hiện quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc không chỉ hạn chế quyền đối với chủ sở hữu bất động sản liền kề mà còn phiền lụy tới chủ sở hữu các bất động sản xung quanh. Bởi bất động sản chịu dịch quyền là các bất động sản về bản chất không di dời được và cùng loại nên khi chúng tồn tại trong một cộng đồng tài sản ít nhiều phải chịu sự hạn chế quyền của chủ sở hữu bất động sản đó để đảm bảo cho việc khai thác, sử dụng bình thường các bất động sản khác. Từ việc xác định các bất động sản liền kề mới có thể xác định được các hạn chế mà chủ sở hữu hay người sử dụng phải chịu để thuận lợi cho chủ sở hữu bất động sản khác. Sự hạn chế trên một bất động sản là một dạng quyền của người khác trên một bất động sản không thuộc sở hữu của mình.

Theo các quy định của BLDS tại phần: “Những quy định khác về quyền sở hữu” thì các bất động sản liền kề chỉ được áp dụng đối với đất đai và một số công trình xây dựng, đặc biệt giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ về vật lý cũng như về pháp lý được pháp luật ghi nhận.

Tóm lại, bất động sản liền kề là bất động sản là bất động sản về bản chất không di dời được và giữa chúng tồn tại ranh giới chung. Ranh giới chung này được xác định theo quy định của pháp luật, theo thỏa thuận giữa các chủ sở hữu, theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp. Tuy nhiên, nếu căn cứ khái niệm trên thì chỉ bất động sản liền kề phải có nghĩa vụ hạn chế quyền sử dụng nhằm mục đích phục vụ một bất động sản liền kề khác. Thực tế trong nhiều trường hợp, bất động sản không có sự tiếp giáp ranh giới trực tiếp với bất động sản được hưởng quyền địa dịch cũng phải có nghĩa vụ đáp ứng quyền này hoặc có những địa dịch không bao hàm quyền sử dụng đối với bất động sản liền kề mà chỉ khống chế quyền sử dụng của chủ sở hữu bất động sản đó, vì lợi ích của chủ bất động sản lân cận. Chẳng hạn, địa dịch không xây dựng hoặc xây dựng theo những điều kiện nhất định không hề có tác dụng thừa nhận cho chủ sở hữu lân cận một quyền sử dụng nào đối với bất động sản đó. Chính vì vậy, khái niệm bất động sản liền kề chưa bao quát được trọn vẹn nội dung của quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo quy định của BLDS năm 2005.

1.2.2. Khái niệm quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

Từ thời La Mã cổ đại, địa địch đã được định nghĩa là việc một bất động sản chịu sự khai thác của một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của một người khác. Theo cách định nghĩa đó, bất động sản được coi là một chủ thể. Đặc biệt, nó cũng có nhu cầu giao tiếp với xã hội bên ngoài và để làm được việc đó, trong điều kiện bất động sản tồn tại cố định trong cộng đồng láng giềng, nó có thể cần phải đi qua bất động sản khác, trong quá trình xây dựng con đường thông thương với xã hội.

Quyền dụng ích, quyền địa dịch (Servitus) là một dạng quyền đối với tài sản của người khác xuất phát từ quyền tư hữu đối với đất đai. Việc tồn tại sở hữu tư nhân đối với đất đai có thể tồn tại tình trạng có khoảnh đất không có những điều kiện cần thiết, tối thiểu để sử dụng một cách bình thường (một thửa ruộng không có nước để canh tác, không có đường dẫn ra công lộ do bị bao bọc bởi những thửa ruộng của người khác). Để sử dụng, khai thác một mảnh đất có các điều kiện nêu trên cần phải có sự “trợ giúp” của mảnh đất của hàng xóm (bất động sản liền kề) [19, tr77].

Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam có cội nguồn từ Luật La Mã, tiếp thu những nguyên lý cơ bản của Luật La Mã và những nguyên tắc cơ bản trong BLDS Pháp năm 1804.

Thời kỳ Pháp thuộc, nước Việt Nam được phân chia thành 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ với những quy chế chính trị khác nhau mặc dù nền tảng pháp luật dân sự nói chung chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật dân sự của Pháp. Mỗi miền áp dụng một BLDS khác nhau. Nền tảng pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ bấy giờ dựa trên ba bộ luật khác nhau. Dân luật giản yếu Nam Kỳ ban hành ngày 26/03/1883, BLDS Bắc Kỳ ban hành ngày 30/03/1931 thay thế cho bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật ban hành vào các ngày 13/07/1936, 08/01/1938, 28/09/1939. BLDS giản yếu Nam Kỳ cùng với BLDS Pháp (kể cả các quy đinh của Luật Hồng Đức, Luật Gia Long) cũng được áp dụng ở miền Nam bởi BLDS giản yếu Nam Kỳ không đủ và có nhiều quy định không phù hợp với miền Nam cho đến khi ban hành BLDS Sài Gòn ngày 28/06/1972

Các quy định về quyền sử dụng bất động sản liền kề trong các BLDS nói trên đều thống nhất sử dụng khái niệm địa dịch chứ không sử dụng khái niệm quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề như trong BLDS 1995, 2005. Cụ thể, điều 629 Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật qui định:

Địa dịch là những sự mà một bất động sản phải gánh. Bất động sản ấy gọi là bất động sản chịu địa dịch để làm ích cho một bất động sản của của người khác, bất động sản này là bất động sản hưởng địa dịch. Những sự gánh chịu ấy hoặc hạn chế sự tự do trong đường hưởng dụng quyền lợi của người chủ sở hữu bất động sản chịu địa dịch, hoặc là cho chủ sở hữu bất động sản hưởng địa dịch được lợi dụng một đôi chút về bất động sản chịu địa dịch [2].

Tương tự như vậy, Điều 601 Dân luật Bắc Kỳ qui định:“Địa dịch là những sự phiền lụy buộc vào một sở nhà đất để lợi dụng cho một sở nhà đất của người khác”

  • Đối chiếu với Luật Dân sự của chế độ Sài Gòn cũ về vấn đề địa dịch, chúng ta thấy cũng có những quy định tương tự và khá đầy đủ, chi tiết về địa dịch. Quy định về quyền địa dịch trong dân luật Sài Gòn năm 1972 Quyển 2 thiên thứ 4 điều 463 :

Địa dịch là dịch lụy đặt trên một bất động sản để làm thuận lợi hay tiện ích cho một bất động sản khác, thuộc quyền sở hữu của ngừơi khác. Địa sản phải chịu dịch lụy như trên gọi là địa sản thừa dịch, địa sản được hưởng sự thuận lợi gọi là địa sản hưởng dịch [30].

Tóm lại quy định về địa dịch trong pháp luật dân sự Việt Nam trước khi ban hành BLDS 1995, 2005 đều có điểm chung đó là thống nhất sử dụng khái niệm địa dịch chứ không sử dụng khái niệm quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.

Đồng thời, coi quan hệ địa dịch là một quan hệ vật quyền (quyền trên vật): một bất động sản phải chịu “dịch lụy” để làm lợi cho một bất động sản khác. Bất động sản chịu dịch lụy là bất động sản thừa dịch, bất động sản hưởng thuận lợi là bất động sản hưởng dịch.

Ngày nay, BLDS không sử dụng khái niệm “quyền địa dịch” mà sử dụng khái niệm “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề”. Điều 273 BLDS 2005 quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề như sau:

Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để bảo đảm các nhu cầu của mình về lối đi, cấp, thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thoả thuận khác [21, Điều 273].

Về bản chất pháp lý chúng có nội dung tương tự như nhau, nhưng khái niệm “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” mới này có tính Việt hóa, tạo điều kiện cho những người không có nhiều kiến thức về luật có thể hiểu được dễ dàng. Tuy nhiên, khái niệm “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” chưa bao quát được hết toàn bộ nội dung khái niệm quyền địa dịch, vì nếu xem xét bất động sản liền kề là bất động sản thuộc bản chất không di dời được và giữa chúng tồn tại một ranh giới chung thì bất động sản liền kề đó mới phải chịu hạn chế quyền để phục vụ một bất động sản cùng loại. Nhưng trên thực tế, có những bất động sản không có chung ranh giới nhưng giữa chúng vẫn tồn tại quyền địa dịch: chẳng hạn muốn mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc hoặc đường ống cấp thoát nước ….. cho một chủ sở hữu bất động sản, có thể phải hạn chế quyền của nhiều bất động sản xung quanh không chỉ đối với bất động sản liền kề thì chủ sở hữu bất động sản hưởng địa dịch mới có thể khai thác bình thường quyền đối với bất động sản của mình. Chính vì vậy, khái niệm liền kề không chỉ hạn chế trong phạm vi giữa các bất động sản cùng chung ranh giới mà còn được mở rộng đến các bất động sản xung quanh. Để khai thác được giá trị của một bất động sản bị vây bọc không có lối đi, hay không mắc được đường dây tải điện… thì cần thiết phải sử dụng hạn chế không chỉ các bất động sản liền kề mà còn phải phiền lụy đến các bất động sản xung quanh. Pháp luật hiện hành không quy định chỉ được sử dụng duy nhất một bất động sản liền kề mà có khi phải hệ lụy đến nhiều bất động sản khác để chủ sở hữu, người sử dụng có thể thực hiện được quyền về lối đi hay quyền cấp thoát nước. Tạm gọi bất động sản chịu địa dịch là bất động sản phục vụ; Bất động sản hưởng địa dịch là bất động sản thụ hưởng.

Về đặc điểm của địa dịch

Thứ nhất, địa dịch là quyền đối vật: Trong Luật La Mã, địa dịch không phải là quyền của một chủ sở hữu, tương ứng với nghĩa vụ của chủ sở hữu khác, mà là quyền trực tiếp trên một vật, cụ thể là một bất động sản. Bởi vậy, dù bất động sản có thuộc về ai, địa dịch vẫn tồn tại và vận hành. Tính đảm bảo và bền vững của quyền địa dịch xác nhận đó là một dạng vật quyền: một mảnh đất phục vụ yêu cầu một mảnh đất khác mà không phải một người phục vụ một người khác. Vì vậy, việc thay đổi chủ sở hữu của một trong hai mảnh đất không làm mất đi tính phục vụ của nó. Đối tượng của quyền địa dịch chính là mảnh đất mà không phải hành vi của chủ sở hữu mảnh đất. Do đó, quyền địa dịch là một dạng vật quyền: quyền sử dụng tài sản của người khác trong những quan hệ nhất định.

Thứ hai, địa dịch luôn gắn liền với bất động sản: Người nào trực tiếp sử dụng bất động sản thì cũng trực tiếp thụ hưởng hoặc gánh chịu địa dịch. Khi bất động sản được chuyển dịch, thì người nhận chuyển nhượng mặc nhiên thụ hưởng hoặc gánh chịu địa dịch mà không có sự lựa chọn nào khác. Địa dịch không thể được tách rời khỏi bất động sản để trở thành một quyền gắn liền với nhân thân của một chủ thể nào đó.

Thứ ba, quyền địa dịch không thể phân chia: Địa dịch không thể chia nhỏ như chia quyền sở hữu tài sản. Trong trường hợp bất động sản thụ hưởng thuộc sở hữu chung của nhiều người, thì mỗi chủ sở hữu chung thực hiện trọn quyền địa dịch, chứ không chỉ một phần quyền tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Tương ứng, khi bất động sản phục vụ thuộc về nhiều người thì mỗi chủ sở hữu gánh trọn địa dịch.

Về các yếu tố của địa dịch

Địa dịch được cấu thành từ ba yếu tố: có một bất động sản chịu địa dịch, gọi là bất động sản phục vụ; có một bất động sản thụ hưởng địa dịch, gọi là bất động sản thụ hưởng và hai bất động sản thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau.

Thứ nhất, về bất động sản phục vụ: Sự phục vụ bao hàm sự hạn chế đối với quyền của chủ sở hữu bất động sản, vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ sở hữu bất động sản khác. Thực ra, sự phục vụ của bất động sản trong quan hệ địa dịch không phải là thái độ chủ động mà là thụ động: chủ sở hữu để yên cho người khác khai thác lợi ích từ bất động sản của mình hoặc không làm một việc gì đó ảnh hưởng xấu đến việc khai thác lợi ích từ bất động sản của người khác.

Thứ hai, về bất động sản thụ hưởng: Sự thụ hưởng có tác dụng làm gia tăng các quyền của chủ sở hữu, bên cạnh các quyền đối với bất động sản của mình, chủ sở hữu còn có một số quyền đối với bất động sản của người khác. Thực ra, các quyền đối với bất động sản của người khác chỉ phát sinh trong khuôn khổ thực hiện các quyền đối với bất động sản của chính mình. Chẳng hạn, chủ sở hữu có quyền đi qua bất động sản của người khác để ra đường công cộng, bởi vì chính bất động sản của mình không trực tiếp thông thương được với đường công cộng; nếu vì lý do gì đó, mà tình trạng vây bọc chấm dứt, thì quyền về lối đi qua trên bất động sản của người khác cũng chấm dứt.

Thứ ba, hai bất động sản thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau: Trong trường hợp hai bất động sản thuộc về một chủ sở hữu, việc một bất động sản phục vụ một bất động sản khác chỉ là một hình thức tổ chức nội bộ việc khai thác sản nghiệp của chủ sở hữu, chứ không phải là một địa dịch. Hai bất động sản thuộc hai chủ sở hữu khác nhau là điều kiện bắt buộc để quan hệ địa dịch tồn tại. Bởi vậy, nếu bất động sản phục vụ được chuyển giao cho chủ sở hữu bất động sản thụ hưởng, thì quan hệ địa dịch cũng chấm dứt.

Tuy nhiên, nếu một người là chủ sở hữu một bất động sản đồng thời là đồng chủ sở hữu chung theo phần đối với một bất động sản khác, thì quan hệ địa dịch giữa hai bất động sản cũng có thể phát sinh. Tương tự, trong trường hợp một bất động sản thuộc về một người, bất động sản còn lại thuộc về một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, mà thành viên duy nhất cũng chính là người đó, thì quan hệ địa dịch giữa hai bất động sản cũng có thể phát sinh, dù trên thực tế chủ sở hữu của cả hai bất động sản chỉ là một.

Về các phương thức thiết lập địa dịch

Thứ nhất, Địa dịch do địa thế tự nhiên: Có trường hợp do địa thế tự nhiên mà một bất động sản ở trong tình trạng phục vụ một hoặc nhiều bất động sản khác mà không có sự lựa chọn. Trường hợp điển hình là địa dịch liên quan đến việc cấp thoát nước: loại địa dịch này được đề cập tại BLDS 2005 Điều 277. Nước được đề cập trong điều luật là nước thuộc mọi nguồn gốc: nước mưa, nước thải, nước tưới…

Thứ hai, địa dịch do luật: Trong nhiều trường hợp, luật chủ động can thiệp để một địa dịch được thiết lập, nhằm bảo đảm sự khai thác bình thường đối với một bất động sản. Sự can thiệp tỏ ra cần thiết trong điều kiện quyền sở hữu được thừa nhận là tuyệt đối và độc quyền và thông thường, chủ sở hữu không bao giờ tự nguyện để cho chủ sở hữu khác sử dụng tài sản của mình. Một trong các ví dụ điển hình về loại địa dịch này là quyền về lối đi qua của chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc.

Xem Thêm ==> Khái niệm ,đặc điểm về giải quyết tranh chấp đất đai 

Thứ ba, địa dịch do hành vi của người: Điạ dịch có thể được thiết lập do hiệu lực của một giao dịch, tức là sự bày tỏ ý chí của một người. Về tính chất, giao dịch có thể là sự thoả thuận hoặc là hành vi pháp lý đơn phương (ví dụ, di chúc). Chẳng hạn, do việc phân chia một bất động sản lớn mà có một trong các bất động sản được chia nhỏ ở trong tình trạng không thể tiếp xúc trực tiếp với đường công cộng và các bên phân chia thoả thuận về việc dành cho người được chia bất động sản đó một lối đi qua trên một hoặc nhiều bất động sản lân cận. Địa dịch cũng có thể được thiết lập do việc tách một bất động sản có hệ thống phục vụ nội bộ thành hai bất động sản thuộc về hai người khác nhau. Loại địa dịch này được thiết lập thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất, chủ sở hữu thiết lập trên hai phần của bất động sản của mình một hệ thống phục vụ nội bộ mà nếu hai phần đó là hai bất động sản thuộc về hai người khác nhau, thì hệ thống ấy thực sự là một địa dịch. Các ví dụ rất đa dạng: đường dẫn nước thải, máng xối, lối đi qua… Trong giai đoạn thứ hai, hai phần của bất động sản được tách ra thành hai bất động sản thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau và do các chủ sở hữu không có thoả thuận gì đặc biệt về số phận của hệ thống phục vụ nội bộ trước đây mà hệ thống này được duy trì và trở thành địa dịch. Tất nhiên, để địa dịch được thiết lập, thì hệ thống phục vụ phải đang vận hành ở thời điểm bất động sản được phân chia. Nếu hệ thống phục vụ đã ngưng vận hành, thì địa dịch không thể được thiết lập một cách đương nhiên, mà cần có sự thoả thuận của các bên.

1.2.3. Quy chế pháp lý về ranh giới giữa các bất động sản liền kề

Ranh giới giữa các bất động sản liền kề là để phân cách bất động sản này với bất động sản khác, là căn cứ để xác định quyền sử dụng của chủ sở hữu bất động sản đó nên việc xác định ranh giới là vấn đề quan trọng để giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng bất động sản. Ranh giới, cách xác định ranh giới, quyền của các chủ sở hữu bất động sản đối với ranh giới là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong thực tiễn.

Theo Từ điển tiếng Việt thì: “Ranh giới là đường phân giới hạn giữa hai khu vực, hai địa hạt liền nhau” [29, tr792].

  1. Nguyễn Ngọc Điện cho rằng: “Ranh giới giữa các bất động sản có tác dụng phân lập các bất động sản với các bất động sản khác nhằm xác định quyền của một chủ sỡ hữu đối với bất động sản đó” [10, tr399]. Cơ sở để xác định ranh giới là diện tích, hình dáng, kích thước của bất động sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

Theo quy định tại Điều 265 Khoản 1, 3 BLDS 2005:

Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp. [21, Điều 265].

Điều 266 Khoản 1,2 BLDS 2005:

Chủ sở hữu bất động sản liền kề chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn trền phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Nhưng người sử dụng đất liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn, trồng cây trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; nhưng vật mốc giới này là sở hữu chung của những người đó.

Đối với mốc giới là tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ, lỗ thông khí hoặc đục tường để đặt kết cấu xây dựng, trừ trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý [21, Điều 266].

Ranh giới giữa các bất động sản có thể bao gồm cột mốc, hàng rào tường ngăn, kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng, ngoài ra ranh giới còn có thể xác định theo tập quán và theo thỏa thuận giữa các chủ sở hữu bất động sản liền kề. Qua những quy định này chúng ta có thể nhận thấy ranh giới giữa các bất động sluật quy định dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng khái niệm các loại ranh giới này lại chưa được pháp luật quy định một cách rõ ràng vì chúng dựa trên các tiêu chí khác nhau khi xác định. Việc xác định ranh giới giữa các bất động sản với nhau được thể hiện bằng các vật thể vật chất và thông qua hành vi của chủ sở hữu bất động sản hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Cắm mốc giới được hiểu là việc xác định đường ranh giới giữa hai bất động sản bằng các dấu hiệu vật chất gọi là cọc mốc.

Việc cắm mốc giới có thể được thực hiện theo thoả thuận. Thế nhưng, trong trường hợp không có thoả thuận, thì luật Việt Nam lại có những quy tắc rất đặc thù của một hệ thống pháp luật bất động sản dựa trên chế độ công hữu về đất đai.

Thứ nhất, cắm mốc theo thoả thuận: Theo BLDS Điều 266 Khoản 1, những người sử dụng phần đất liền kề có thể thoả thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn. Luật không có quy định gì đặc biệt về các điều kiện xác lập thoả thuận. Vậy có nghĩa rằng thoả thuận được xác lập theo luật chung về hợp đồng. Vấn đề theo quy định của pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý và giao cho cá nhân, tổ chức sử dụng thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chính vì vậy, việc trao cho người sử dụng đất quyền thỏa thuận với nhau về việc cắm mốc giới xác định phần quyền của mình trong quá trình sử dụng đất là không hợp lý. Việc cắm mốc theo thoả thuận chỉ được thừa nhận trong trường hợp những người sử dụng đất đã là chủ sở hữu đất từ trước khi có hệ thống pháp luật đất đai mới. Khi giao đất, cho thuê đất lần đầu, chủ sở hữu đất trong khung cảnh luật thực định, tức là Nhà nước, thông qua vai trò của cơ quan quản lý đất đai, phải chỉ rõ giới hạn phần đất liên quan bằng cách chủ động cắm mốc giới.

Thứ hai, cắm mốc trong trường hợp không có thoả thuận: Theo BLDS, Điều 266, Khoản 1, chủ sở hữu bất động sản liền kề chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Tất nhiên, khi một người làm việc gì đó trong phạm vi phần đất thuộc quyền sử dụng của mình mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của những người sử dụng đất lân cận, thì không cần phải hỏi ý kiến hoặc thảo luận với những người này. Nếu mỗi người sử dụng đất lân cận tự ý dựng cột mốc trên phần đất của mình thì sẽ tồn tại hai hệ thống cột mốc song song phân chia hai bất động sản thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau mà không phải là một ranh giới chung. Kiểu cắm mốc này rất phung phí các nguồn lực vật chất của xã hội và đặc biệt là quỹ đất, không nên được khuyến khích nhất là tại các đô thị. Đồng thời, kiểu cắm mốc giới theo sang kiến cá nhân này cũng hoàn toàn không phù hợp với chế độ công hữu đất đai bởi Nhà nước, chủ sở hữu đất, phải phân định rõ giới hạn mảnh đất, dải đất mà người sử dụng đất có quyền sử dụng và người sử dụng đất chỉ có quyền sử dụng được Nhà nước thừa nhận thông qua việc phân ranh giới giữa các bất động sản.

Thứ ba, cắm mốc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Về mặt lý thuyết, nếu các bên có tranh chấp về ranh giới, thì việc cắm mốc giới theo sáng kiến cá nhân không thể thực hiện được, bởi cá nhân không biết được đâu là giới hạn bên trong phần đất của mình. Muốn cắm mốc giới trong trường hợp này, các bên phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Việc cắm mốc giới sẽ được thực hiện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Dựng hàng rào là việc chủ sở hữu thiết lập hệ thống che chắn vật chất trên ranh giới bất động sản của mình, để ngăn chặn sự xâm nhập tuỳ tiện từ bên ngoài hoặc sự tò mò của người thứ ba đối với cuộc sống riêng tư của chủ sở hữu bất động sản diễn ra bên trong phần đất của chủ sở hữu đó. Dựng hàng rào là một quyền, chứ không phải là một nghĩa vụ, của chủ sở hữu bất động sản. Việc dựng hàng rào phải tuân theo các quy định chung về xây dựng.

Căn cứ quy định của BLDS điều 266 Khoản 1 có thể suy đoán mỗi chủ sở hữu chung có quyền sử dụng riêng biệt, độc quyền, đối với phần vách tường nhìn vào bất động sản của mình. Nếu tường rào cấu tạo bằng cây cối thì chủ sở hữu có quyền chia một nửa hoa lợi, trừ trường hợp có thoả thuận khác. BLDS, Điều 266, Khoản 1 quy định: “Đối với cây là mốc giới chung, các bên đều có nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi thu được từ cây được chia đều, trừ trường hợp có thoả thuận khác” [21, Điều 266]. Như vậy, mốc giới vật chất giữa các bất động sản liền kề thuộc sở hữu chung theo phần của các chủ sở hữu, trong đó đối tượng là vật không chia được. Các chủ sở hữu chung đều có phần quyền tương ứng đối với vật chất tạo nên mốc giới chung đó và được hưởng hoa lợi, lợi tức (nếu mốc giới đó sinh lợi) tương ứng với phần quyền của mình. Tuy nhiên, khi chủ sở hữu chuyển giao bất động sản của mình cho người thứ ba thì chuyển giao đồng thời phần quyền của chủ sở hữu đối với mốc giới chung đó mà không cần hỏi ý kiến của chủ sở hữu còn lại. Chủ sở hữu còn lại cũng không có quyền ưu tiên mua như trong trường hợp bán phần quyền sở hữu đối với tài sản chung thông thường. Xác định rõ vấn đề này để tránh các tranh chấp liên quan đến sở hữu chung về mốc giới giữa các chủ sở hữu bất động sản liền kề.

BLDS, Điều 266, Khoản 1 quy định:

Trong trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thoả thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn phải dỡ bỏ. [21, Điều 266]

Việc xây dựng mốc giới chung có thể được thực hiện theo thoả thuận giữa các bên. Khi đó, chi phí xây dựng, phần quyền sở hữu, thực hiện quyền sở hữu,… cũng do các bên thoả thuận. Trong trường hợp chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng

  • mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn phải dỡ bỏ. Nếu mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản do một chủ sở hữu bất động sản tạo dựng bằng chi phí của mình lại nằm trên ranh giới và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý, thì mốc giới ngăn cách đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu bất động sản. Điều này khó lý giải tại sao chi phí xây dựng mốc giới ngăn cách lại do một bên ghánh chịu và bên kia lại có quyền sở hữu chung đối với mốc giới ngăn cách mà mình không tạo ra trên ranh giới chung. Nếu xem xét quy định của pháp luật trong trường hợp này với quy chế pháp lý đối với tài sản gắn liền với đất đai như nhà, công trình xây dựng thì chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng không đồng thời là người có quyền sử dụng đất. Bởi vậy, cho dù mốc giới vật chất này được xác lập trên phần ranh giới chung nhưng do một bên xây dựng thì mốc giới vật chất đó phải thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu tạo nên mốc giới vật chất đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quy định như vậy mới có sự tương đồng và thống nhất giữa các quy định của pháp luật về đất đai nói riêng và pháp luật nói chung.

1.2.4. Khái niệm bất động sản bị vây bọc

“Một bất động sản được coi là bị vây bọc nếu bất động sản đó không có ranh giới tiếp xúc trực tiếp với hệ thống hạ tầng công cộng phục vụ cho việc sử dụng cũng như khai thác bất động sản đó” [17, tr140]. Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề chỉ được áp đối với những bất động sản không được tiếp giáp trực tiếp với cơ sở hạ tầng công cộng (như đường đi, hệ thống thủy lợi, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện….).

Theo TS. Nguyễn Ngọc Điện, sự vây bọc một bất động sản có thể được phân chia thành các dạng vây bọc khác nhau như:

“Vây bọc giả tạo là việc vây bọc trong đó chủ sở hữu bất động sản tự mình xây dựng các công trình chắn ngang nơi mà bất động sản có thể trực tiếp thông thương với đường công cộng, thiết bị công cộng” [10, tr.360]. Trong trường hợp này, sự vây bọc giả tạo không phải là căn cứ pháp lý để xác lập quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề vì thực tế, bất động sản bị vây bọc giả tạo vẫn có ranh giới tiếp xúc trực tiếp với hệ thống hạ tầng công cộng phục vụ cho việc sử dụng và khai thác bất động sản đó mà không cần phiền lụy một bất động sản khác.

“Vây bọc không hoàn hảo là tình trạng bất động sản chắn ngang bởi một công trình xây dựng trên bất động sản do người khác tạo lâp” [10, tr.360].

Trong trường hợp này, bất động sản bị vây bọc và bất động sản có công trình xây dựng chắn ngang tạo thành tình trạng vây bọc thực chất cùng nguồn gốc và thuộc về một chủ sở hữu. Tình trạng này rất ít khi sảy ra trừ khi người sử dụng bất động sản bị vây bọc cho thuê một phần bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người thứ ba và người này xây dựng công trình xây dựng khiến cho bất động sản của chủ sở hữu bị vây bọc. Trên thực tế, trường hợp này rất ít. Xét về bản chất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề chỉ tồn tại khi hai thửa đất thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, công trình xây dựng gắn với đất đai theo quy định của pháp luật cũng là một bất động sản và do đó khi có các điều kiện hoàn cảnh dẫn tới việc sử dụng hạn chế để đảm bảo việc khai thác bình thường một bất động sản khác thì quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề phát sinh. Trường hợp này nếu có theo suy đoán có thể giải quyết rất dễ dàng mà không sảy ra tranh chấp vì thửa đất thuộc về một chủ sở hữu, người sử dụng.

Vây bọc theo nghĩa kinh tế: “Bất động sản không bị vây bọc về địa lý nhưng nếu khai thác bất động sản theo hướng không bị vây bọc về địa lý thì tốn kém hơn nhiều so với việc sử dụng bất động sản liền kề” [10, tr.361].

Trong trường hợp này, việc tạo lập quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề chỉ có thể được thiết lập thông qua việc thỏa thuận với chủ sở hữu bất động sản liền kề. Nhưng theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu bất động sản liền kề không có nghĩa vụ hạn chế quyền sở hữu của mình trong trường hợp bất động sản liền kề không bị vây bọc về địa lý mặc dù việc hạn chế quyền sở hữu của họ trong trường hợp này sẽ ít thiệt hại về mặt kinh tế hơn cho chủ sở hữu bất động sản có nhu cầu phiền lụy

Về bản chất, các bất động sản luôn luôn có sự tiếp giáp ranh giới với nhau, nếu sự tiếp giáp ranh giới này dẫn đến một bất động sản không tiếp cận được với đường công cộng, hệ thống điện, hệ thống cấp, thoát nước…. thì bất động sản đó mới phát sinh quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề. Tùy tình trạng vây bọc của bất động sản mà BLDS 2005 quy định nội dung quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề cụ thể.

1.3. Quyền đối với bất động sản liền kề (Địa dịch hay dịch quyền) theo pháp luật một số nước

Từ thời cổ La Mã, địa địch đã được định nghĩa là việc một bất động sản chịu sự khai thác của một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của một người khác Quyền địa dịch là dạng quyền đối với tài sản của người khác được xác lập bởi đối tượng của quyền mà không phải căn cứ vào chủ thể của quyền đó. Quyền địa dịch không phục vụ cho một chủ thể xác định nào với tư cách là chủ sở hữu mảnh đất mà chính là sự hữu dụng mà mảnh đất đó được hưởng

Bộ luật Dân sự Đức được công bố ngày 01/01/1900, trong đó, luật pháp về bất động sản vốn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi pháp luật La Mã, gần như được giữ nguyên và được pháp điển hóa trong cuốn thứ 3 của Bộ luật này. Tại Đức, pháp luật về bất động sản được coi là một ngành luật khá ổn định.

Pháp luật bất động sản hiện hành của Cộng hòa Liên bang Đức dựa trên nguyên tắc công nhận quyền sở hữu tư nhân, cho phép được tự do và thường xuyên sử dụng cũng như khai thác các giá trị kinh tế vốn có của bất động sản. Chúng có liên hệ mật thiết với các khái niệm quyền tự do của con người, tự do hợp đồng, tự do thương mại và tự do lựa chọn nghề nghiệp. Pháp luật về bất động sản của Đức quy định 3 loại quyền đối với đất đai là quyền sử dụng; quyền bảo đảm, sinh lợi và quyền được ưu tiên mua bất động sản. Quyền địa dịch (quyền địa dịch trên bất động sản, quyền địa dịch cá nhân, quyền hoa lợi) được quy định từ Điều 1018 đến Điều 1093.

 

Chủ sở hữu của mảnh đất phải chấp nhận hoặc bỏ qua một số hành vi nhất định gọi là quyền địa dịch. Các quyền địa dịch được phân biệt tùy vào chủ thể có quyền sử dụng đất. Chẳng hạn, Điều 1018 Bộ luật Dân sự Đức quy định quyền địa dịch trên bất động sản vì lợi ích của chủ sở hữu hoặc người đang chiếm hữu đối với bất động sản liền kề. Điều 1091 Bộ luật Dân sự Đức quy định quyền địa dịch cá nhân vì lợi ích cá nhân người khác. Điều 1068 Bộ luật Dân sự Đức quy định người thu hoa lợi có quyền sử dụng tài sản.

Luật bất động sản ở nhiều nước như Mỹ mang tính khu vực của từng bang, không mang tính toàn liên bang. Thuật ngữ “Luật Mỹ” (American Law) do vậy phải được hiểu theo ý nghĩa chung. Pháp luật về thị trường bất động sản ở Mỹ tồn tại trên cơ sở những đạo luật của 50 bang khác nhau. Quyền địa dịch được hình thành bằng các văn bản thoả thuận theo một hệ thống pháp luật nhằm tạo thuận lợi tối đa cho việc sử dụng đất mà vẫn đảm bảo được sự hạn chế một cách tối đa việc xâm hại đến lợi ích của những người sử dụng đất xung quanh.

Điều 637 BLDS Pháp đưa ra khái niệm dịch quyền như sau : “Dịch quyền là một nghĩa vụ đối với một bất động sản tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng một bất động sản thuộc sở hữu của người khác” [31, Điều 637]. Điều 544 BLDS Pháp quy định quyền sở hữu là quyền hưởng dụng và định đoạt tài sản một cách tuyệt đối nhất, miễn là không sử dụng tài sản vào những việc pháp luật cấm. Tuy nhiên, quyền sở hữu không có nghĩa là tuyệt đối mà trong một số trường hợp cụ thể chủ sở hữu chỉ được phép sử dụng hạn chế tài sản của mình. Bộ luật dân sự Pháp quy định về quyền địa dịch như sau: Quyền địa dịch gồm có các loại địa dịch do luật định như: Vị trí miếng đất và việc thoát nước: miếng đất thấp phía dưới phải tôn trọng quyền này của miếng đất phía trên; Lối đi: một miếng đất không có lối đi ra thì có quyền tiếp cận với miếng đất để có lối đi ra đường; Tầm nhìn: nếu có bức tường chung giữa 2 nhà thì không được mở cửa sổ trừ khi có khoảng trống; Trồng cây: phải có khoảng cách giữa các cây của 2 nhà. Ngoài địa dịch do luật định còn có địa dịch do thỏa thuận (hợp đồng), địa dịch hành chính…

BLDS Quêbec, Canada đưa ra khái niệm về quyền địa dịch tại chương 3 phần 1 Điều 1177: “Địa dịch là nghĩa vụ đặt ra cho một bất động sản (gọi là đất chịu địa dịch) có lợi cho một bất động sản khác (gọi là đất địa dịch) thuộc về một chủ sở hữu khác” [33, Điều 1177]

Tương tự như vậy, BLDS Nhật Bản quy định về nội dung của địa dịch (content of servitudes) tại Chương 6 Điều 280 như sau:

Người có quyền địa dịch có thể sử dụng đất của người khác để làm thuận lợi cho việc sử dụng hoặc khai thác lợi ích của mình phù hợp với mục đích quy định trong văn bản xác lập địa dịch song không vi phạm các quy định tại chương 3 mục I về trật tự công cộng [32, Điều 280]Qua các quy định trên của các nước về bất động sản chúng ta nhận thấy về bản chất địa dịch đã được ghi nhận trong các BLDS trên có những điểm cơ bản giống nhau ở chỗ đều coi địa dịch là một dạng quyền đối với tài sản của người khác trong đó một người (chủ sở hữu một bất động sản) được sử dụng bất động sản của người khác trong phạm vi nhất định để phục vụ cho việc khai thác, sử dụng bất động sản của mình. Các quy định về địa dịch được quy định trong các BLDS của các nước kể trên có nguồn gốc từ Luật La Mã trong đó coi địa dịch là một dạng vật quyền: một mảnh đất phục vụ yêu cầu một mảnh đất khác mà không phải một người phục vụ một người khác. Vì vậy, việc thay đổi chủ sở hữu của một trong hai mảnh đất không làm mất đi tính phục vụ của nó. Đối tượng của quyền địa dịch chính là mảnh đất mà không phải hành vi của chủ sở hữu mảnh đất. Chính vì vậy, quyền địa dịch là một dạng vật quyền: quyền sử dụng tài sản của người khác trong những quan hệ nhất định.

BLDS Liên bang Nga quy định về địa dịch có nhiều điểm tương đồng với quy định về địa dịch trong BLDS Việt Nam. BLDS Liên bang Nga Điều 274 quy định chủ sở hữu một bất động sản (mảnh đất, các bất động sản khác) trong trường hợp cần thiết, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản liền kề tạo cho họ quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.

Địa dịch được thiết lập trên một bất động sản nhằm mục đích đảm bảo cho việc khai thác bình thường một bất động sản khác. Hay nói cách khác, sự phiền lụy được xác định cho một bất động sản nhằm phục vụ cho một bất động sản khác mà hai bất động sản này thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau. Với ý nghĩa này, quyền địa dịch được coi là một dạng vật quyền (quyền trên vật), vì vậy, trong các BLDS đều có quy định quyền địa dịch được dịch chuyển cùng với việc dịch chuyển quyền sở hữu (quyền sử dụng) bất động sản chịu địa dịch. Điều này có nghĩa là việc chuyển giao quyền sở hữu bất động sản hưởng địa dịch cho người thứ ba thì địa dịch được thiết lập giữa hai bất động sản này mặc nhiên vẫn tồn tại. Chủ sở hữu, người sử dụng bất động sản hưởng địa dịch không phải thỏa thuận hoặc yêu cầu lại chủ sở hữu, người sử dụng bất động sản chịu địa dịch thiết lập lại địa dịch vì dù bất động sản thuộc về ai, địa dịch vẫn tồn tại và vận hành. Tuy nhiên, để thiết lập quyền địa dịch lần đầu tiên trên một bất động sản phải có quyền yêu cầu của chủ sở hữu, người sử dụng bất động sản hưởng địa dịch và nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu của chủ sở hữu, người sử dụng bất động sản chịu địa dịch (thông qua một hành vi cụ thể như cho phép đi qua, cho phép mở cửa sổ…) cho nên, địa dịch vừa mang tính vật quyền, vừa có những yếu tố của quan hệ trái quyền.

Tóm lại, đất đai là một tài sản đặc biệt có vị trí rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Do bản chất đất đai là bất động sản không thể di dời nên trong quá trình khai thác, sử dụng, để đảm bảo và dung hòa quyền và lợi ích của các chủ sở hữu, người sử dụng, nhà nước và các lợi ích công cộng thì pháp luật quy định chủ sở hữu, người sử dụng có quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề của người khác để đảm bảo những nhu cầu chính đáng của mình như quyền về lối đi qua, quyền về cấp thoát nước, quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc,…..

Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề vừa mang tính vật quyền, vừa có những yếu tố của quan hệ trái quyền. Nhưng theo tác giả, xét về bản chất, địa dịch vẫn phải được coi là một quan hệ vật quyền, chỉ có như vậy mới tạo ra một quan hệ láng giềng ổn định giữa các bất động sản mà không phụ thuộc vào việc thay đổi chủ sở hữu, người sử dụng bất động sản đó trừ khi bản thân bất động sản hưởng địa dịch không có nhu cầu phiền lụy bất động sản chịu địa dịch để đảm bảo cho việc khai thác bình thường bất động sản đó.


Trên đây là mẫu chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Quyền Sử Dụng Hạn Chế Bất Động Sản Liền Kề Theo Pháp Luật được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo