Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hộ Công Dân Việt Nam Ở Nước Ngoài dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hộ Công Dân Việt Nam Ở Nước Ngoài mẫu đề tài này được kham khảo từ bài khóa luận tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình
Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149
2.1. Quy định pháp luật Quốc tế
2.1.1. Quy định trong công ước Quốc tế
- 2.1.1.1. Công ước viên về quan hệ ngoại giao 1961
Trong quá trình xây dựng và phát triển các Công ước của Liên hợp quốc thì Công ước Viên về quan hệ ngoại giao được thông qua ngày 18/4/1961 tại Hội nghị Viên của Liên hợp quốc về Quan hệ ngoại giao và miễn trừ ngoại giao. Bắt đầu có hiệu lực ngày 24/4/1964 là Công ước quốc tế quy định đầy đủ nhất các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao. Công ước Viên khẳng định mục đích của việc ưu đãi, miễn trừ không để làm lợi cho các cá nhân mà tạo điều kiện thuận lợi để cho các cơ quan đại diện ngoại giao và các nhà ngoại giao thực hiện có hiệu quả các chức năng của họ với tư cách là đại diện cho nước cử. Việc ký kết công ước này sẽ góp phần vào việc phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước, không phụ thuộc vào chế độ nhà nước và xã hội khác nhau.
Công ước Viên về quan hệ ngoại giao (1961) là Công ước quốc tế quy định đầy đủ nhất các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao. Công ước Viên khẳng định mục đích của việc ưu đãi, miễn trừ không để làm lợi cho các cá nhân mà tạo điều kiện thuận lợi để cho các cơ quan đại diện ngoại giao và các nhà ngoại giao thực hiện có hiệu quả các chức năng của họ với tư cách là đại diện cho nước cử. Việc ký kết Công ước này sẽ góp phần phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước, không phụ thuộc vào chế độ nhà nước và xã hội khác nhau.
Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao 1961 khẳng định các quyền ưu đãi, miễn trừ không để làm lợi cho các cá nhân mà nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan ngoại giao và nhà ngoại giao thực hiện có hiệu quả chức năng của họ. Công ước này đã góp phần phát triển quan hệ giữa các nước. Các cơ quan lãnh sự và viên chức lãnh sự được hưởng ưu đãi, miễn trừ theo Công ước Viên về quan hệ lãnh sự), về cơ bản tương tự ưu đãi, miễn trừ ngoại giao. Là nước đã tham gia Công ước Viên về quan hệ ngoại giao, Theo quy định của Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao (1961), các cơ quan đại diện ngoại giao một nước trên lãnh thổ của nước sở tại có thẩm quyền “bảo vệ lợi ích quốc gia và của công dân mình trong giới hạn của luật pháp quốc tế” nói chung.
Trên thực tế thì cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài phải thực hiện nhiều biện pháp nhằm thực hiện chức năng bảo hộ cho công dân nước mình. Tuy nhiên, các hoạt động đó phải phù hợp với các quy tắc, quy định của đất nước đã cử và nước đặt trụ sở cơ quan ngoại giao. Việc thực hiện hoạt động ngoại giao phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ngoại giao và các hoạt động được phép thực hiện nhằm đảm bảo cho quá trình giúp đỡ và bảo hộ các công dân ở nước ngoài đạt kết quả cao. Vấn đề thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao còn cho thấy mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau và khi có sự cắt đứt sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các công dân có mối liên hệ, khi quốc gia cắt đứt quan hệ ngoại giao cũng có nghĩa là mối quan hệ giữa hai nước đã xấu đi và từ đó quyền lợi của công dân có thể sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, cơ quan đại diện ngoại giao phải có trách nhiệm duy trì mối quan hệ hữu nghị giữa nước cử và nước tiếp nhận để đảm bảo địa vị pháp lí của công dân mình được ổn định hơn. Đồng thời, cơ quan đại diện ngoại giao trong phạm vi thẩm quyền của mình ở nước sở tại có nhiệm vụ đảm bảo cho các quyền lợi của công dân nước mình được thực hiện và khôi phục lợi ích đã bị vi phạm. Như vậy,
- 2.1.1.2. Công ước viên về quan hệ Lãnh sự 1963
Công ước Vienna về quan hệ lãnh sự (1963) quy định chức năng và thẩm quyền lãnh sự của cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự. Theo quy định của Công ước Vienna 1963 thì có quy định “phù hợp với thông lệ và thủ tục của quốc gia sở tại, (cơ quan lãnh sự) có thể đại diện hoặc thu xếp đại diện thích hợp cho công dân nước mình trước tòa án và các cơ quan chức năng của nước sở tại để yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm thời phù hợp với pháp luật của quốc gia sở tại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình, trong trường hợp người đó không có người đại diện hoặc vì những lý do mà người đó không thể thu xếp được người đại diện đúng lúc.”
Tại điều 2 Công ước quy định về việc thành lập một cơ quan lãnh sự. Theo đó, khi các bên thiết lập quan hệ ngoại giao thì cũng đồng thời thiết lập quan hệ lãnh sự, trừ khi các bên không muốn như vậy. Trong trường hợp việc thiết lập quan hệ ngoại giao không bao gồm việc thiết lập quan hệ lãnh sự thì việc lập quan hệ lãnh sự giữa các nước được tiến hành theo thoả thuận giữa các nước với nhau. Như vậy, tương tự như việc thành lậpcơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự cũng được thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia. Hiện nay, chức năng lãnh sự do cơ quan lãnh sự thực hiện là chủ yếu, nhưng trong một số trường hợp nếu được nước tiếp nhận đồng ý thì cơ quan đại diện ngoại giao cũng có thể thực hiện chức năng của cơ quan lãnh sự và ngược lại, cơ quan lãnh sự cũng có thể thực hiện chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao với điều kiện là “Trong một nước mà nước cử không có cơ quan đại diện ngoại giao và cũng không uỷ nhiệm một cơ quan đại diện ngoại giao của một nước thứ ba làm đại diện” (điều 17 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963). Khác với cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự chỉ thực hiện một số chức năng lãnh sự trong một phạm vi nhất định và chỉ liên lạc với chính quyền địa phương tại khu vực lãnh sự (tuy nhiên trong một số trường hợp phù hợp với pháp luật và tập quán của nước tiếp nhận hoặc các điều ước quốc tế có liên quan cho phép, cơ quan lãnh sự có thể liên lạc với nhà chức trách trung ương có thẩm quyền của nước tiếp nhận- điều 38 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963). Vì vậy, Cơ quan lãnh sự là cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở nước ngoài, nhằm thực hiện chức năng lãnh sự trong một khu vực lãnh thổ nhất định của nước tiếp nhận, trên cơ sở thỏa thuận giữa hai nước hữu quan[1].
Tại khu vực lãnh sự của mình, cơ quan lãnh sự có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước và công dân của quốc gia nước cử. Cụ thể như: Bảo vệ tại nước tiếp nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, pháp nhân và công dân nước cử, trong phạm vi luật pháp quốc tế cho phép; Giúp đỡ công dân bao gồm cả thể nhân và pháp nhân của nước cử; Phù hợp với thực tiễn và thủ tục hiện hành ở nước tiếp nhận, đại diện hoặc thu xếp việc đại diện thích hợp cho công dân nước cử trước toà án và các nhà chức trách khác của nước tiếp nhận, nhằm đưa ra những biện pháp tạm thời phù hợp với luật và quy định của nước tiếp nhận để bảo vệ các quyền và lợi ích của các công dân đó, nếu vì vắng mặt hoặc vì một lý do nào khác, họ không thể kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích của họ; thực hiện một số chức năng có tính chất hành chính… (Điều 5 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự 1963). Tương tự như Công ước Viên về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên về quan hệ lãnh sự cũng quy định các quyền cần thiết để cho cơ quan lãnh sự hoàn thành tốt chức năng của mình tại nước tiếp nhận. Chẳng hạn như quyền không bị phân biệt đối xữ; Các quyền ưu đãi miễn trừ nhưng phạm vi những quyền này hẹp hơn. Bên cạnh đó cũng quy định nghĩa vụ của nước tiếp nhận phải tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan lãnh sự thực hiện chức năng của mình.
Như vậy, có thể thấy luật pháp quốc tế bảo đảm các cơ quan đại diện của một nước có quyền bảo vệ lợi ích của công dân nước mình, nhưng với điều kiện phải trong giới hạn cho phép của luật pháp quốc tế và phù hợp với thông lệ và pháp luật của quốc gia sở tại. Điều này có nghĩa, các cơ quan đại diện cần tiến hành bảo hộ công dân bằng các biện pháp và cách thức phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế như nguyên tắc bình đẳng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia sở tại.
Xem Thêm ==>Dịch vụ viết chuyên đề thực tập , điểm cao
2.1.2. Các Hiệp định song phương giữa Việt Nam và một số quốc gia liên quan đến bảo hộ công dân
- 2.1.2.1. Các Hiệp định, thỏa thuận miễn thị thực giữa Việt Nam và một số quốc gia
Trong quá trình tạo mối quan hệ giữa các nước thì Việt Nam đã ký kết và thực hiện các Hiệp định, thỏa thuận miễn thị thực với một số quốc gia. Miễn thị thực nghĩa là quốc gia cho phép một số đối tượng đặc biệt được xuất nhập cảnh ưu tiên, không phân biệt mục đích xuất nhập cảnh. Công dân nước khác khi được miễn thị thực sẽ được lưu trú trong một khoảng thời gian mà không cần làm những thủ tục cũng như đóng các khoản lệ phí liên quan tới việc xuất nhập cảnh. Đối với miễn thị thực song song thì Việt Nam đã ký Hiệp định, thỏa thuận miễn thị thực với 91 nước, trong đó 04 Hiệp định với Ca-mơ-run, Nam-mi-bi-a, Ê-ti-ô-pi-a và Pa-na-ma (HCPT) chưa xác định hiệu lực. Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho công dân 13 nước là Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, I-ta-li-a, Bê-la-rút và cho quan chức Ban thư ký ASEAN.
Hiện tại Việt Nam miễn visa thị thực cho công dân một số nước với các hình thức chủ yếu như sau:
– Miễn visa thị thực theo hiệp định song phương (Có đi có lại): Bao gồm miễn thị thực cho các quốc gia Asian theo đó Việt Nam miễn Visa thị thực cho các công dân đến từ các quốc gia Đông Nam Á (Asian) và các quốc gia này cũng miễn thị thực visa cho công dân Việt Nam khi nhập cảnh các quốc gia này. Thời hạn miễn thị thực song phương không quá 30 ngày.
– Miễn thị thực đơn phương (Chỉ đơn phương phía Việt Nam miễn thị thực Visa): Hiện tại Việt Nam miễn thị thực cho công dân của 13 quốc gia bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Nga, Belarus, Đức, Pháp, Anh, Italy và Tây Ban Nha. Thời hạn của miễn thị thực đơn phương này không quá 15 ngày.
– Miễn thị thực 5 năm: Là hình thức miễn thị thực dài nhất mà Chính phủ Việt Nam ưu tiên giành cho những người nước ngoài có nguồn gốc Việt Nam hoặc có quan hệ hôn nhân, huyết thống với công dân Việt Nam không phân biệt quốc gia. Người được hưởng hình thức miễn thị thực này mỗi lần nhập cảnh vào Việt Nam được miễn Visa 90 ngày trong thời hạn 5 năm. Hết thời hạn miễn thị thực người nước ngoài có quyền xin cấp mới Giấy miễn thị thực..
Vai trò của hoạt động cấp thị thực tạo điều kiện để công dân thực hiện các hoạt động về kinh tế – xã hội, văn hóa và du lịch giữa các quốc gia. Đồng thời, trong các hiệp định song phương, đa phương và đơn phương về miễn thị thực có các điều khoản nhằm bảo hộ các công dân của các quốc gia đã ký kết và Việt Nam nhằm đảm bảo cho quá trình hoạt động hội nhập và phát triển kinh tế – xã hội nói chung.
- 2.1.2.2. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lí giữa Việt Nam và một số nước
Từ năm 1980 đến năm 2007, trong lĩnh vực dân sự và thương mại, Việt Nam đã ký được 15 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự với nước ngoài, chủ yếu là các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây (tới nay, Hiệp định ký với CHDC Đức đã hết hiệu lực).[2] Cụ thể là, trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992, Việt Nam đã ký được 06 Hiệp định và kể từ khi ban hành Hiến pháp 1992 đến trước khi ban hành Luật Tương trợ tư pháp 2007, Việt Nam ký thêm được 09 Hiệp định Tương trợ tư pháp với các nước[3]. Nội dung của các Hiệp định được ký trong hai giai đoạn này về cơ bản là giống nhau. Các Hiệp định này đều điều chỉnh một cách tổng thể hai mảng quan hệ, đó là tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các nước ký kết và phương pháp thống nhất các quy tắc lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết các xung đột pháp luật và quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và hình sự, trong một số Hiệp định còn giải quyết cả vấn đề dẫn độ hoặc chuyển giao người bị kết án phạt tù.
Có thể nhận thấy, trong những năm trở lại đây, Việt Nam đã rất tích cực hoạt động nhằm nâng cao vị thế của mình trong cộng đồng ASEAN, trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương và cả trên bình diện toàn cầu bằng cách chủ động tổ chức hoặc tham gia các diễn đàn, hội nghị và chủ động đưa ra những đề xuất, sáng kiến trong việc nâng cao hiệu quả hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại, đặc biệt là đưa ra những đề xuất đối với các thành viên ASEAN.
Thông qua hoạt động thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp góp phần tạo lòng tin của các công dân, pháp nhân vào hệ thống tư pháp được cải thiện do các vụ việc, tranh chấp về dân sự có nhiều cơ hội hơn để được xem xét một cách công bằng, khách quan cho tất cả các bên đương sự và cho những người có quyền và lợi ích liên quan, cho dù người đó cư trú ở trong hay ngoài nước, bản án đã được tòa án trong nước tuyên được bảo đảm được công nhận và thi hành ở nước ngoài. Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp của Việt Nam xác định được đầu mối rõ ràng để liên hệ, yêu cầu các cơ quan tư pháp của nước ngoài hỗ trợ tiến hành công tác xét xử. Quy trình thực hiện ủy thác tư pháp rõ ràng hơn, đơn giản hơn, rút ngắn được thời gian thực hiện, rút bớt được nhiều giai đoạn, nhiều thủ tục hơn (được miễn hợp pháp hóa giấy tờ, được gửi trực tiếp qua cơ quan trung ương chứ không phải đi vòng qua cơ quan đại diện ngoại giao, được miễn một số loại phí thực hiện ủy thác, ngôn ngữ thực hiện được xác định rõ ràng từ trước…).
Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện nay, Việt Nam và các nước trong khu vực vẫn chưa coi trọng đúng mức cơ chế hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại. Hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại hiện nay giữa Việt Nam và hầu hết các nước trong khối ASEAN cũng như giữa các nước trong khối với nhau vẫn chỉ tiến hành trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại đối với từng vấn đề cụ thể. Việt Nam vẫn chưa ký kết hoặc tham gia một công ước quốc tế nào về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự. Trong quan hệ dân sự, hình sự nói chung thì Việt Nam và các quốc gia về thông thường điều chỉnh tổng thể cả hai mảng quan hệ là tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các quốc gia và quy tắc chọn pháp luật để áp dụng giải quyết xung đột pháp luật cũng như quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong giải quyết vác vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và hình sự.
Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và gia đình trước hết được điều chỉnh bởi các quy định chung bao gồm các quy định về vấn đề bảo hộ pháp lý, cơ quan thực hiện và cơ quan đầu mối tương trợ tư pháp, cách thức liên hệ, phạm vi vấn đề tương trợ tư pháp, ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp, thực hiện uỷ thác tư pháp, triệu tập người làm chứng, người giám định, cách thức tống đạt giấy tờ, quy định về từ chối tương trợ tư pháp, chi phí tương trợ tư pháp.
Ngoài ra, các hiệp định tư pháp với các quy định lựa chọn pháp luật để giải quyết các xung đột pháp luật trong lĩnh vực nhân thân, hôn nhân gia đình, thừa kế. Ngoài ra, phần này có chương quy định chi tiết về điều kiện và thủ tục miễn giảm án phí, thi hành quyết định về án phí của toà án, gửi các văn bản giấy tờ về hộ tịch và chương quy định về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết của Toà án và cơ quan có thẩm quyền khác, trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành. Đồng thời, xử lý xung đột pháp luật, thẩm quyền về tố tụng khá chi tiết, hợp lý và chặt chẽ. Từ đó, góp phần thay đổi gây không ít khó khăn cho việc thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp và áp dụng để giải quyết các vụ việc phát sinh giữa công dân các quốc gia.
- 2.1.2.3. Hiệp định lao động với một số nước
Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế trong và ngoài nước thì vấn đề xuất khẩu lao động ra nước ngoài nên việc xây dựng các hiệp định lao động là điều hoàn toàn cần thiết. Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác BHCD và pháp nhân VNONN, Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế, thể chế hóa nhiều văn bản pháp luật. Đến nay, Chính phủ đã mở 67 Đại sứ quán, 23 Tổng Lãnh sự quán và 7 Cơ quan Lãnh sự danh dự ở khắp các châu lục. Chính phủ đã cho phép tiếp tục mở thêm một số CQĐD trong vòng ba năm tới, đưa con số CQĐD VNONN lên gần 100 cơ quan. Với bộ máy này, công tác bảo hộ, giúp đỡ công dân ở nước ngoài đã và chắc chắn sẽ đạt được nhiều kết quả tích cực. Tại các Đại sứ quán ở địa bàn có đông lao động Việt Nam như: Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Qatar, UAE, Séc…, đều đã thành lập Ban Quản lý lao động. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội rà soát ký kết Hiệp định lao động với các nước: Lào năm 1995, Ô-man năm 2007, Qatar năm 2008, LB Nga năm 2008, Kazakstan 2008, UAE 2009, Canada 2010… Đây là những hành lang pháp lý quan trọng, là cơ sở để bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động VNONN. Với các quy định và hình thành nền tảng pháp lý về BHLĐ cho công dân Việt Nam khi lao động ở nước ngoài. Đồng thời, các CQĐD ta ở nước ngoài đã cấp hàng chục nghìn hộ chiếu cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhằm đáp ứng nguyện vọng giữ quốc tịch Việt Nam và thuận lợi khi về nước thăm thân, mua nhà tại Việt Nam; cấp hàng nghìn hộ chiếu cho người bị mất hộ chiếu nhằm tạo địa vị pháp lý để họ đủ điều kiện xin cư trú hoặc gia hạn cư trú ở nước ngoài; cấp Thông hành cho lao động bị về nước trước hạn hoặc người bị trục xuất về nước.
CQĐD ta ở nước ngoài đã thực hiện nhiều vụ việc bảo hộ quyền lợi của người lao động ghi trong hợp đồng như thiếu tiền lương, mất việc, tai nạn bị thương, bị chết trong khi lao động… và các quyền lợi khác liên quan. Điển hình là việc Đại sứ quán Việt Nam tại Qatar đã đấu tranh bảo vệ quyền lợi của lao động Nguyễn Văn Bảy, bị tai nạn lao động dẫn đến tử vong ngày 14/10/2008 tại Qatar, phía chủ đã phải chấp nhận bồi thường cho gia đình anh Bảy với số tiền hơn 54.000 USD.
Bộ Ngoại giao đã chủ động chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, các công ty phái cử nhanh chóng kịp thời tổ chức Đoàn công tác liên ngành ra nước ngoài xử lý các vấn đề xung đột giữa người lao động Việt Nam với chủ sử dụng lao động, với nước sở tại hoặc trong nội bộ lao động Việt Nam, không để ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, cũng như hình ảnh của người Việt Nam ở nước ngoài.
2.2. Quy định trong pháp luật Việt Nam
2.2.1. Hiến pháp 2013
Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải liên kết lại với nhau thành những cộng đồng, thành xã hội. Và cùng với những sự liên kết đó, trong mỗi cộng đồng đã sinh ra quyền lực công cộng – một phương tiện để duy trì trật tự trong mỗi cộng đồng, cũng như trong toàn xã hội và để phối hợp hoạt động của cả cộng đồng, của xã hội theo những định hướng nhất định vì những mục tiêu chung nhằm đạt tới tự do, hạnh phúc cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước, cũng có nghĩa là xuất hiện quyền lực nhà nước – một loại quyền lực công cộng đặc biệt bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân nhưng không do toàn thể nhân dân tự thực hiện mà do một bộ máy chuyên môn thay mặt nhân dân thực hiện. Song trên thực tế, sự kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước từ xưa đến nay luôn là vấn đề rất khó khăn; trong nhiều trường hợp có thể nói là nhân dân hầu như không thể kiểm soát được quyền lực nhà nước. Để nhân dân có thể kiểm soát được quyền lực nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là “của dân, do dân và vì dân” thì cần phải xác lập một cơ chế giao và kiểm soát quyền lực chặt chẽ từ phía nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, những người đại diện cho nhân dân để nhân dân không bị biến thành công cụ, phương tiện phục vụ lợi ích cho những người mà họ đã uỷ quyền, thì biện pháp tốt nhất trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là phải xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hiến pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật cơ bản do nhà nước quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, về vị trí, chức năng tổ chức bộ máy nhà nước. Các quy phạm hiến pháp là cơ sở, nguyên tắc để xậy dựng và tổ chức thực hiện các ngành luật khác Ngày 28/11/2013, tuyệt đại đa số Đại biểu Quốc hội khóa XIII đã thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để trở thành Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi (sau đây gọi là Hiến pháp 2013). Hiến pháp 2013 trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và bảo đảm quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong đó, các quyền và nghĩa vụ của công dân là được nhà nước bảo hộ trong và ngoài nước, đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài, điều này được ghi nhận tại Điều 75 Hiến pháp 1992 và ghi nhận tại Điều 17 của Hiến pháp 2013: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì nó giúp cho các cơ quan có thẩm quyền bảo hộ công dân của nước ta xác định chính xác đối tượng được bảo hộ, cũng như phù hợp với pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó thể hiện chính sách xem người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, người Việt Nam ra nước ngoài vì bất kì lí do gì cũng được nhà nước Việt Nam bảo hộ. Đồng thời nhà nước Việt Nam chỉ bảo hộ cho những người là công dân Việt Nam, còn đối với những người đã từng là công dân Việt Nam nhưng vì lí do nào đó mà không còn quốc tịch Việt Nam thì nhà nước Việt Nam không có trách nhiệm bảo hộ họ. Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 cũng quy định nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ được Hiến pháp năm 2013 quy định một cách toàn diện và đầy đủ tại điều 16: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Như vậy, mọi công dân Việt Nam không phân biệt thành phần, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…đều được nhà nước bảo hộ như nhau khi ở trong nước cũng như nước ngoài. Các cơ quan có thẩm quyền nói chung và các cơ quan có thẩm quyền bảo hộ công dân nói riêng phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này bởi vì chỉ khi nào nguyên tắc này được đảm bảo thì xã hội mới có công bằng, quyền và lợi ích của công dân mới được đảm bảo một cách tốt nhất. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa các bản Hiến pháp thì Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam” (Điều 17). Đây là một quy định rất quan trọng để xác định một người là công dân Việt Nam, theo đó, một người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam và sẽ được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Như vậy, Hiến pháp 2013 với tính chất là một đạo luật có giá trị pháp lí cao nhất ở nước ta hiện nay đã quy định một cách cơ bản các quyền của công dân Việt Nam. Trong đó quyền được nhà nước Việt Nam bảo hộ là một quyền rất quan trọng, nó không chỉ thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với công dân mình mà còn thể hiện chủ quyền của nhà nước Việt Nam so với các quốc gia khác.
Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật
2.2.2. Luật Cơ quan đại diện 2009, sửa đổi bổ sung 2017
Bên cạnh Hiến pháp thì các quy định của Luật cơ quan đại diện 2009, sửa đổi bổ sung 2017 là nền tảng để cơ quan đại diện thực hiện quy định về CQĐD ở nước ngoài
Luật CQĐD gồm 6 chương, 36 điều được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 02/9/2009, bãi bỏ Pháp lệnh Lãnh sự năm 1990 và Pháp lệnh Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1993. Việc ban hành Luật CQĐD có ý nghĩa quan trọng, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để các CQĐD thực hiện chức năng đại diện chính thức của Nhà nước Việt Nam tại quốc gia và tổ chức quốc tế tiếp nhận, triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hoá, lãnh sự, công tác cộng đồng, thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại. Luật CQĐD xác định rõ hơn về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐD cũng như cơ chế phối hợp công tác giữa các CQĐD trên cùng một địa bàn, giữa cơ quan trong nước và CQĐD, qua đó tăng cường hiệu quả hoạt động của CQĐD và việc triển khai thực hiện các chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
Bên cạnh giải pháp về con người, nhằm đáp ứng yêu cầu tăng cường hiện diện ngoại giao của Việt Nam tại các nước trong điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, cần bổ sung quy định về cơ chế Đại sứ đặt tại Việt Nam, phụ trách quan hệ với các nước mà không thành lập CQĐD. Cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 186 nước, song cơ quan đại diện ngoại giao mới được thành lập tại 71 nước; đối với 115 quốc gia còn lại, có 44 người đứng đầu các cơ quan đại diện tại quốc gia khác được cử kiêm nhiệm theo quy định tại Điều 20 của Luật CQĐD. Trong một số trường hợp, cơ chế Đại sứ kiêm nhiệm không phát huy hiệu quả do số lượng nước kiêm nhiệm nhiều trong khi CQĐD được tổ chức theo mô hình nhỏ gọn, đặc biệt ở khu vực Châu Phi. Có trường hợp nước được kiêm nhiệm không có cơ quan đại diện ngoại giao tại nước kiêm nhiệm, dẫn đến khó khăn trong liên lạc, xử lý công việc. Với quy định của Luật cơ quan đại diện ở nước ngoài sẽ tạo nền tảng quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động bảo hộ công dân ở nước ngoài. Đồng thời, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại; đảm bảo thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về quản lý thống nhất các hoạt động bảo hộ công dân, triển khai thực hiện các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 trong thực tế.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân ở nước ngoài
- 2.3.1.1. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân ở nước ngoài
Hiện nay chưa có một văn bản pháp lý quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của cá nhân ở nước ngoài được áp dụng chung cho các cá nhân nói chung trên toàn thế giới. Nói cách khác, tùy mỗi quốc gia sẽ có hệ thống pháp lý quy định chung cho các cá nhân về quyền và nghĩa vụ khi ở trên đất nước họ.
Có thể xem quyền và nghĩa vụ của công dân có thể được chia thành hai loại gồm quyền và nghĩa vụ cơ bản (được quy định mang tính xác lập, khởi đầu trong Hiến pháp – luật cơ bản của Nhà nước) và quyền, nghĩa vụ khác hay quyền, nghĩa vụ không cơ bản (được quy định mang tính xác lập, khởi đầu trong các luật, bộ luật). Phân tích sâu hơn, chúng ta nhận thấy Hiến pháp chỉ quy định những quyền và nghĩa vụ công dân hoặc có tính quan trọng đặc biệt, hoặc vừa có tính quan trọng đặc biệt vừa có tính khái quát so với quyền và nghĩa vụ luật định. Ví dụ: nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ chung được hiến định; còn nghĩa vụ nộp một loại thuế cụ thể như thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất nhập khẩu… sẽ do luật định. Hoặc quyền được Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình (theo suy đoán) là quyền chung.Trong trường hợp này, nếu chỉ lấy việc xác định độ tuổi làm căn cứ thì quyền bầu cử dường như là quyền khá cụ thể; tuy nhiên, nếu tiếp tục xét một số trường hợp công dân tuy đủ tuổi hiến định song vẫn bị tước quyền bầu cử theo luật định (ngoại lệ) thì quyền này lại vẫn mang tính khái quát.
Về nghĩa vụ của cá nhân ở nước ngoài thì bên cạnh việc tuân thủ các quy định của nước sở tại thì nghĩa vụ của cá nhân phải chấp hành các nghĩa vụ của nước mà công dân mang quốc tịch. Việc quy định về nghĩa vụ của các cá nhân ở nước ngoài được các quy định tại văn bản pháp luật của các quốc gia, các hiệp định tương trợ tư pháp mà các quốc gia đã ký kết và các công ước mà các quốc gia là thành viên.
- 2.3.1.2. Quyền và nghĩa vụ của pháp nhân ở nước ngoài
Pháp nhân nước ngoài chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật của nước pháp nhân mang quốc tịch điều chỉnh: năng lực pháp luật dân sự, điều kiện thủ tục thành lập, hợp nhất, giải thể, chia tách,thanh lí tài sản khi giải thể pháp nhân; Pháp luật nước sở tại quy định quyền và nghĩa vụ của pháp nhân, lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, quy mô ngành nghề…Quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài còn thể hiện ở chỗ khi các quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân nước ngoài bị xâm phạm thì nó sẽ được nước mà nó mang quốc tịch thực hiện sự bảo hộ pháp lý về mặt ngoại giao.
Nội dung quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài là không giống nhau giữa các nước và ngay trong cùng một nước ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau quy chế pháp lý đối với pháp nhân nước ngoài không phải lúc nào cũng giống nhau. Ví dụ: Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam được xác định trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Về năng lực pháp luật dân sụ của pháp nhân nước ngoài theo quy định tại Điều 765 Bộ luật dân sự thì được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập; trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác; trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên nội dung cụ thể của quy chế pháp lý dân sự của các loại pháp nhân ước ngoài hoạt động ở Việt Nam không hoàn toàn giống nhau.
2.4. Trách nhiệm của Nhà nước trong công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài trong công tác lãnh sự
2.4.1. Ở trong nước
- 2.4.1.1. Bộ ngoại giao
Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân luôn là vấn đề trọng tâm trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Có thể nói một trong những vấn quan trọng trong mối quan hệ giữa các quốc gia hiện nay là vấn đề bảo hộ công dân. Nhà nước luôn có cơ chế luôn đảm bảo cho công dân được những lợi ích và các quyền công dân và ngược lại công dân phải thực hiện nghĩa vụ pháp lí mà pháp luật quy định. Việc thiết lập các cơ chế để thúc đẩy và hoàn thiện mối quan hệ này cũng luôn là những nội dung được quan tâm hàng đầu về cơ chế pháp lí cũng như thực tiễn cuộc sống. Một những quyền mà mọi công dân quan tâm nhất hiện nay là quyền được bảo hộ khi đang ở nước ngoài, đây là trách nhiệm của quốc gia đối với công dân của mình. Bộ Ngoại giao là cơ quan quản lý Nhà nước về công tác lãnh sự đồng thời cũng trực tiếp xử lý những công việc về lãnh sự theo quy định của pháp luật và phân công của Chính phủ đối với các pháp nhân, công dân Việt Nam và các đối tượng nước ngoài. Bộ Ngoại giao nói riêng trong việc nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài.
Bộ Ngoại giao có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan có liên quan xây dựng kế hoạch hoạt động đối ngoại nhà nước; tổng hợp kế hoạch hoạt động đối ngoại của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan có liên quan và các địa phương; hướng dẫn tổ chức thực hiện và yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan có liên quan và các địa phương báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện các hoạt động đối ngoại; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan hướng dẫn nghiệp vụ đối ngoại cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan có liên quan và các địa phương…Bộ Ngoại giao có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan có liên quan và các địa phương bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế. Việc này thể hiện rất rõ trong quy định của Hiến pháp, của Luật Tổ chức Chính phủ. Quyền của công dân và trách nhiệm của Nhà nước đã được quy định rõ trong những văn bản pháp luật cao nhất. Quán triệt tinh thần đó, từ trước đến nay, việc bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài, Chính phủ đã giao cho Bộ Ngoại giao chủ trì. Bộ Ngoại giao chủ trì về mặt nhà nước đối với công tác bảo hộ công dân.
2.4.1.2. Sở ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh
Sở ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là Sở Ngoại vụ) là đơn vị thuộc Bộ Ngoại giao (sau đây viết tắt là Bộ) có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (sau đây viết tắt là Bộ trưởng) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác đối ngoại và triển khai các nhiệm vụ đối ngoại theo ủy quyền của Bộ trưởng tại các tỉnh, thành từ tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trở vào phía Nam (sau đây viết tắt là các tỉnh, thành phía Nam); đồng thời, tham mưu và trực tiếp triển khai các hoạt động đối ngoại của thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là Thành phố) theo sự chỉ đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố. Đồng thời, xây dựng các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch liên quan đến công tác đối ngoại của Thành phố; tổng hợp, báo cáo tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có yếu tố nước ngoài trên địa bàn Thành phố; kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật nhằm quản lý hoạt động đối ngoại tại Thành phố đồng thời tăng cường công tác bảo hộ công dân nói chung trong thực tế.
2.2.1.3. Cơ quan ngoại vụ các Tỉnh, Thành phố
Dưới sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và sự thống nhất, phối hợp từ Trung ương đến tất cả các địa phương trong cả nước, công tác đối ngoại đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Công tác ngoại vụ tại địa phương sẽ tạo ra bước chuyển về chất đối với tiến trình hội nhập quốc tế tại địa phương, phát huy tối đa tiềm năng địa phương. Các cơ quan ngoại vụ địa phương cần nâng tầm tham gia, đóng góp về công tác nghiên cứu, tham mưu chính sách, phát huy tốt hơn nữa “vai trò đầu mối”, “trái tim hội nhập” tại địa phương trong nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và kịp thời đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực thi các cam kết hội nhập quốc tế và khu vực trong hoạt động bảo hộ công dân trong nước và nước ngoài đáp ứng với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước nói chung.
Xem Thêm ==> Cách viết nhật ký Luật thương mại tại công ty
2.4.2. Ở ngoài nước
2.4.2.1. Bộ ngoại giao
Hiện nay thì vấn đề bảo hộ công dân ở nước ngoài được xem xét đánh giá hết sức quan trọng. Thực tiễn lãnh đạo Bộ Ngoại giao triệu đại sứ, trao công hàm; trả lời phỏng vấn báo chí của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao hoặc Tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao về vấn đề bảo về quyền lợi của công dân; Cục Lãnh sự (Bộ ngoại giao) gửi công hàm cho Đại sứ quán nước ngoài tại Hà Nội hoặc Cục trưởng Cục Lãnh sự mời Đại sứ nước liên quan trao công hàm; Bộ Ngoại giao ta gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao nước ngoài liên quan; cử Đoàn công tác liên ngành trong nước ra nước ngoài thực hiện bảo hộ. Ngoài ra, một số bộ, ngành hoặc hội nghề nghiệp, đoàn thể quần chúng hoặc một số chính khách của ta phát biểu hoặc ra tuyên bố công khai phản đối, lên án việc xâm phạm lợi ích hoặc đối xử thô bạo với công dân, pháp nhân của ta.
Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội rà soát ký kết Hiệp định lao động với các nước: Lào năm 1995, Ô-man năm 2007, Qatar năm 2008, LB Nga năm 2008, Kazakstan 2008, UAE 2009, Canada 2010… Đây là những hành lang pháp lý quan trọng, là cơ sở để bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài. Đồng thời, tạo nền tảng cơ bản cho hoạt động BHCD
2.4.2.2. Tổng lãnh sự quán
Tổng Lãnh sự có chức năng tham mưu, tổng hợp giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao quản lý Nhà nước chuyên ngành về công tác lãnh sự và hoạt động di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của pháp nhân và công dân Việt Nam; chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và Phòng Lãnh sự thuộc Sở Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chức năng lãnh sự phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật quốc tế; phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan xử lý các vấn đề liên quan đến lãnh sự.
2.4.2.3. Lãnh sự quán
Tại điều 8 Luật Cơ quan đại diện đã quy định trách nhiệm của cơ quan đại diện trong việc thực hiện chức năng bảo hộ lãnh sự đối với lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân Việt Nam, cụ thể thông qua các hoạt động như:
Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với pháp luật nước sở tại, điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó ký kết hoặc tham gia và phù hợp với tập quán quốc tế; Bảo đảm cho công dân Việt Nam ở nước tiếp nhận được hưởng những quyền cơ bản theo luật pháp quốc tế như quyền được nước tiếp nhận bảo vệ tính mạng, tài sản và các quyền hợp pháp khác, quyền được tự do cư trú, đi lại, hành nghề…
Thứ hai, đại diện cho pháp nhân, công dân Việt Nam trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự hoặc đại diện cho công dân Việt Nam trước toà án và các cơ quan có thẩm quyền khác của nước tiếp nhận trong quá trình tố tụng hình sự, dân sự… khi pháp nhân hoặc công dân Việt Nam ở trong khu vực lãnh sự vắng mặt mà không ủy nhiệm người khác đại diện hoặc vì lý do nào đó không tự bảo vệ được các quyền lợi của họ.
Thứ ba, liên hệ với cơ quan có thẩm quyền địa ương nhằm đảm bảo việc bắt giữ, tạm giữ, xét xử công dân ta được thực hiện theo đúng pháp luật nước tiếp nhận, các điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước tiếp nhận ký kết hoặc tham gia và tập quán quốc tế. Nếu phát hiện sự vi phạm từ nước tiếp nhận thì cơ quan đại diện yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền trong khu vực lãnh sự thi hành các biện pháp khắc phục.
Thứ tư, liên hệ với cơ quan thẩm quyền nước tiếp nhận để thu xếp việc đi thăm công dân Việt Nam. Khi gặp công dân Việt Nam bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị tù thì cơ quan đại diện tìm hiểu sự việc vi phạm, điều kiện tạm giữ và tâm tư, nguyện vọng của đương sự để có những biện pháp giúp đỡ thích hợp, cung cấp những thông tin pháp lý cần thiết… Cơ quan đại diện có thể nhận chuyển thư từ, tiền, quà cho công dân Việt Nam nếu pháp luật nước tiếp nhận cho phép, giúp đương sự liên lạc với thân nhân hoặc cung cấp thông tin về đương sự cho thân nhân của họ. Bên cạnh đó các cơ quan đại diện còn thực hiện nhiệm vụ lãnh sự khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và không trái với pháp luật của quốc gia tiếp nhận hoặc theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quốc gia tiếp nhận là thành viên.
2.5. Quy định pháp luật về các hoạt động bảo hộ công dân Việt Nam được quy định trong pháp luật hiện hành
2.5.1. Các hoạt động mang tính chất công vụ (cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính, giấy tờ xuất nhập cảnh…)
Cơ quan đại diện có chức năng về cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hộ chiếu, giấy thông hành và giấy tờ khác có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời thực hiện hoạt động cấp, bổ sung, hủy bỏ thị thực; cấp, thu hồi, hủy bỏ giấy miễn thị thực của Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này được quy định tại Điều 8 Luật cơ quan đại diện sửa đổi bổ sung. Trình tự thủ tục được thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của công dân.
2.5.2. Thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân và pháp nhân nước mình
Quá trình công dân Việt Nam ở nước ngoài sinh sống ở nước ngoài thì việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, pháp nhân nước mình là điều rất quan trọng. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã triển khai kịp thời các biện pháp ứng phó khủng hoảng, thực hiện công tác tìm kiếm, hỗ trợ công dân Việt Nam tại nước ngoài trong các vụ động đất, thiên tai, hỏa hoạn hoặc khủng bố, tai nạn gây thiệt hại lớn về người và tài sản xảy ra một cách bất thường ở nhiều nơi trên thế giới. Công tác BHCD cũng ghi nhận sự tăng cường, chủ động trong thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức tới người dân, doanh nghiệp để có thể tự bảo vệ lợi ích của bản thân, tránh rơi vào tình huống bất lợi khi ở nước ngoài cũng như kịp thời thông báo, liên hệ với CQĐD Việt Nam khi gặp khó khăn. Điều này được quy định tại Điều 8 Luật cơ quan đại diện sửa đổi, bổ sung.
2.5.3. Các hoạt động hỗ trợ và bảo vệ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Khẳng định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động BHCD Việt Nam ở nước ngoài nên các hoạt động của hoạt động bảo hộ lãnh sự đối với lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân Việt Nam và thực hiện các nhiệm vụ lãnh sự được quy định tại Điều này trên cơ sở tuân thủ pháp luật Việt Nam, pháp luật của quốc gia tiếp nhận và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quốc gia tiếp nhận là thành viên, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Điều này thể hiện ở việc thăm lãnh sự và liên hệ, tiếp xúc với công dân Việt Nam trong trường hợp họ bị bắt, tạm giữ, tạm giam, xét xử hoặc đang chấp hành hình phạt tù tại quốc gia tiếp nhận.
Trong trường hợp công dân, pháp nhân Việt Nam không thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo pháp luật và thực tiễn của quốc gia tiếp nhận, cơ quan đại diện có thể tạm thời đại diện hoặc thu xếp người đại diện cho họ tại tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tiếp nhận cho đến khi có người khác làm đại diện cho họ hoặc họ tự bảo vệ được quyền và lợi ích của mình. Đồng thời, cơ quan lãnh sự cùng là cơ quan tổng hợp, báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình cộng đồng và công tác vận động, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền về chính sách, biện pháp thích hợp nhằm duy trì sự gắn bó của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đất nước; khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn bản sắc dân tộc, tham gia hoạt động trên các lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước.
Đặc biệt, tạo điều kiện và hỗ trợ cho người Việt Nam ở nước ngoài ổn định cuộc sống, hội nhập với xã hội tại quốc gia tiếp nhận; kiến nghị biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam, ngăn ngừa hành động phân biệt đối xử đối với cộng đồng người Việt Nam ở quốc gia tiếp nhận.
2.5.4. Hỗ trợ tài chính cho công dân Việt Nam ở nước ngoài theo quy chế hoạt động quỹ bảo hộ công dân theo quy định pháp luật
Thực hiện hoạt động bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài thì vấn đề hỗ trợ tài chính cho công dân ở nước ngoài cũng là một trong những quy định cơ bản trong quá trình BHCD ở nước ngoài. Trên cơ sở đó thì Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhận Việt Nam ở nước ngoài được thành lập theo Quyết định số 119/2007/QĐTTg ngày 25/07/2007 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm thực hiện hiệu quả hơn công tác bảo hộ công dân. Quỹ có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Ngoại giao về tổ chức và hoạt động. Cục Lãnh sự là cơ quan được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ủy quyền trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của Quỹ.
Quỹ Bảo hộ công dân hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Hỗ trợ các hoạt động của các Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện việc bảo hộ các quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của côang dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài. Hỗ trợ nhân đạo khẩn cấp cho công dân, pháp nhân Việt Nam gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà họ không thể tự khắc phục được tại thời điểm đó.
Hoạt động bảo hộ công dân ở nước ngoài là một chế định pháp lý quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước trong tình hình mới. Chế định này ra đời và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung, các quy định của nhà nước đối với vấn đề này đã được hệ thống hóa trong các văn bản quản lý nhà nước nói chung và thực sự khẳng định vai trò quan trọng của các quy định này trong hoạt động quản lý nhà nước về vấn đề này nói chung. Quá trình áp dụng các văn bản vào hiện thực, góp phần đảm bảo tính chặt chẽ trong công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài theo quy định pháp luật hiện hành. Thực hiện tốt pháp luật về vấn đề này nói chung là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện công tác bảo hộ công dân nói chung. Chương 2 của khóa luận đã phân tích một cách khái quát về hoạt động bảo hộ công dân ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở lý luận về bảo hộ công dân ở nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam ở Chương 1, tác giả vận dụng thực tiễn tại Việt Nam, đánh giá tình hình thi hành, kết quả đạt được và những hạn chế, khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành pháp luật về bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài được trình bày trong Chương 3 của khóa luận
Trên đây là mẫu chuyên đề thực tập Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hộ Công Dân Việt Nam Ở Nước Ngoài được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149