Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Nguyên tắc và hậu quả pháp lý trong việc chia sẻ tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp về Nguyên tắc và hậu quả pháp lý trong việc chia sẻ tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình
Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149
ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO THỰC TẬP: NGUYÊN TẮC VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung của vợ chồng theo thỏa thuận (có thỏa thuận tài sản) thì khi ly hôn việc phân chia tài sản theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, không rõ ràng thì áp dụng các quy định tương ứng của luật định để phân chia [42, Điều 59]. Trường hợp, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản sẽ ưu tiên, căn cứ trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng và cho phép vợ chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật ghi nhận việc chia tài sản chung như thế nào trước hết phụ thuộc vào ý chí của các bên. Pháp luật cho phép các bên được tự do ý chí, nhưng việc thỏa thuận phải được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật. Thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn cũng chính là một giao dịch dân sự, vì vậy nó phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật nếu có quy định[1]. Ngoài ra, do tính chất đặc trưng của quan hệ hôn nhân và gia đình nên nó có một số đặc điểm riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động không có tài sản riêng để nuôi sống mình.
Việc thừa nhận chế định tài sản theo thỏa thuận cũng là một sự đổi mới thể hiện quan điểm pháp lý tôn trọng sự tự do ý chí của các bên trong quan hệ dân sự. Tại thời điểm kết hôn, khi hai vợ chồng còn thống nhất ý chí, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, thỏa thuận việc phân chia tài sản chung, riêng ngay từ đầu tránh tranh chấp không đáng có khi hai vợ chồng mâu thuẫn đặc biệt khi ly hôn thường thì vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng thường gay gắt nên rất khó để đưa ra tiếng nói chung đặc biệt đối với việc phân chia tài sản.
Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định hình thức ghi nhận thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, khi ly hôn, nếu vợ chồng thỏa thuận được với nhau mọi vấn đề trong đó có vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự[2], Mặc dù luật HN&GĐ năm 2014 không quy định cụ thể hình thức thể hiện việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, nhưng qua các quy định liên quan đến thủ tục ly hôn ta có thể thấy thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng theo chế định luật định được thể hiện trong quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự của Tòa án.
- Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chhung của vợ chồng khi ly hôn
Nếu như kết hôn là một trong những sự kiện pháp lý xác lập chế độ tài sản chung của vợ chồng thì ly hôn là một sự kiện pháp lý chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng. Vợ chồng có thể tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng thông qua lập “hôn ước” nếu lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận; thỏa thuận tại Tòa án khi ly hôn. Trường hợp vợ chồng không thực hiện việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn thì chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng chấm dứt – chấm dứt sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia thay vào đó là chế độ sở hữu chung theo phần. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng, tài sản chia cho bên nào sẽ thuộc sở hữu riêng của bên đó. Từ đó, hoa lợi lợi tức thu được từ phần tài sản riêng của mỗi người sẽ thuộc tài sản riêng của người đó. Tuy nhiên luật hôn nhân gia đình năm 2014 vẫn chưa quy định các tính hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nhưng chưa chia thì xác định quyền sở hữu của vợ, chồng đối với phần tài sản này như thế nào. Tuy nhiên, có thể áp dụng nguyên tắc, xác định tài sản riêng của mỗi người kể từ thời điểm ly hôn, quan hệ sở hữu chung hợp nhất chấm dứt. Nếu tài sản chung của vợ chồng chưa chia sẽ trở thành tài sản chung theo phân của họ. Phần hoa lợi, lợi tức phát sinh trên khối tài sản chung này sẽ được phân chia tương ứng với phần tài sản mà vợ, chồng nhận được khi chia khối tài sản chung này.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn không làm chất dứt quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác[3]. Quy định này, tương tự quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là một điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện quan điểm đổi mới của nhà làm luật thống nhất với luật chung – Bộ luật Dân sự, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người thứ ba.
- [1] Điều 122; Điều 117, Bộ luật dân sự năm 2005
- [2] Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
- [3] khoản 1 Điều 60, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Xem Thêm ==> Cơ sở lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP VÀ MỘT SỚ GIẢI PHÁP
3.1. Thực trạng giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại quận Gò Vấp
3.1.1. Thực trạng giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại Gò Vấp
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu và rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, luật học…Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như Luật HN&GĐ nói riêng đã có những tiếp cận mới phù hợp với truyền thống pháp lý trên thế giới và nhu cầu thực tiễn của cuộc sống. Các quy định pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ngày càng hoàn thiện hơn, phần nào đáp ứng được nhu cầu chính đáng của vợ, chồng, tạo điều kiện cho việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thuận lợi. Trong quá trình áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014 nói chung và các quy định liên quan đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nói riêng vào giải quyết các vụ việc trên thực tế đã thu được những thành tựu đáng kể:
Thứ nhất, các quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đã góp phần củng cố chế độ HN&GĐ. Ở nước ta, chế độ HN&GĐ luôn được bảo hộ. Hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng. Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ tiến bộ, tuân thủ Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 2014 đã ban hành nhiều quy định đảm bảo vấn đề này trong đó có các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Những quy định này góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, củng cố chế độ HN&GĐ mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không được coi trọng, bảo vệ; pháp luật chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo với các tư tưởng: phụ quyền, gia trưởng, trọng nam, khinh nữ… đã làm cho quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình không được bảo hộ. Người phụ nữ phụ thuộc vào chồng, con trai trong gia đình, không có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến tài sản, quyền thừa kế tài sản của chồng bị hạn chế…Hiện nay, quyền phụ nữ được ghi nhận và bình đẳng. Luật HN&GĐ năm 2014 thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong việc tạo lập, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập[1]. Khi ly hôn, về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố: hoàn cảnh gia đình của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung[2]. Như vậy, các quy định này đã thể hiện quyền bình đẳng của người vợ trong quan hệ tài sản với chồng trong vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Thứ hai, phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Luật HN&GĐ năm 2014 không chỉ đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của vợ; bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà còn bảo đảm các quan hệ xã hội khác được ổn định, các hoạt động kinh tế, kinh doanh của vợ chồng được duy trì, bảo đảm sau khi chia tài sản chung của vợ chồng các quan hệ này không bị xáo trộn, vợ, chồng sau khi chia tài sản chung cuộc sống của họ vẫn được đảm bảo. Điều này thể hiện luật quy định rõ nguyên tắc khi chia tài sản chung của vợ chồng: bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập [3]…Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận lại tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch mà họ được hưởng, trường trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác…[4]
Thứ ba, việc thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận góp phần hạn chế các tranh chấp kéo dài khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, thể hiện sự đối mới trong tư duy lập pháp của các nhà làm luật. Luật HN&GĐ nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung đã có những thay đổi trong tư duy xây dựng pháp luật ngày càng phù hợp với nhu cầu pháp lý thực tiễn và truyền thống pháp lý trên thế giới. Các quyền cơ bản của công dân – quyền tài sản gắn với nhân thân ngày càng được đảm bảo.
Bảng 3.1. Công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại Gò Vấp
Năm | 2015 | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 |
Tổng số vụ việc
đã thụ lý |
101 | 110 | 116 | 120 | 135 |
Số vụ việc đã
giải quyết |
97 | 108 | 114 | 118 | 133 |
Tỷ lệ (%) | 96,6% | 98,4% | 98,3% | 98,2% | 98,4% |
Nguồn: Báo cáo kết quả công tác từ năm 2015 dến năm 2019 của Tòa án nhân dân Gò Vấp
Theo khảo sát thực tế các Tòa án nhân dân tại Gò Vấp, các tranh chấp về hôn nhân và gia đình chiếm tỷ lệ cao trong các vụ án mà ngành Tòa án quận Gò Vấp thụ lý, giải quyết, riêng án hôn nhân và gia đình chiếm 42,5% tổng số án đã thụ lý. Công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ luôn đạt tỷ lệ cao (từ 96,6% – 98,4%) và đạt trung bình trong 5 năm qua (từ năm 2015-2019) là 98,3%. Trong quá trình giải quyết án hôn nhân gia đình, Thẩm phán luôn đề cao tinh thần hòa giải, tạo mọi điều kiện để các cặp vợ chồng về đoàn tụ gia đình. Kết quả, tỷ lệ công nhận hòa giải và hòa giải đoàn tụ thành chiếm tỷ lệ cao, trung bình chiếm tỷ lệ 68%. Khảo sát thực tế cho thấy, số lượng các vụ án chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn chiếm tỷ lệ khoảng 25%, nhưng các vụ án đưa ra xét xử đều mang tính phức tạp cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan trọng của các đương sự trong vụ án, có vụ án đưa ra xét xử nhiều lần nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm. Điển hình như sau:
Bảng 3.2. Báo cáo số liệu án HN&GĐ năm 2019 của TAND Gò Vấp
Số vụ án đã thụ lý | Số vụ án đã giải quyết | Số vụ án còn lại | |||||||||
Công
nhận sự thỏa thuận |
|||||||||||
Cũ | Mới | Tổng
thụ lý |
Chuyển
hồ sơ |
Đình
chỉ |
Xét
xử |
Tổng
giải quyết |
Trong
hạn |
Quá
hạn |
Tạm
đình chỉ |
||
3 | 71 | 74 | 1 | 11 | 54 | 4 | 70 | 2 | 01 | 1 | |
Nguồn: Báo cáo kết quả công tác từ năm 2015 dến năm 2019 của ngành Tòa án nhân dân Gò Vấp
Qua số liệu trên, ta thấy số vụ án giải quyết được chiếm 95% trong đó tỷ lệ công nhận hòa giải và hòa giải đoàn tụ thành chiếm tỷ lệ cao khoảng 73%. Số vụ án đưa ra xét xử chiếm 6% trên tổng số đơn đã thụ lý, trong đó tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn chiếm tỷ lệ nhỏ khoảng 3%.
Qua khảo sát thực trạng thụ lý, giải quyết, xét xử án hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân hai cấp tại Gò Vấp trong thời gian qua cho thấy, hầu hết các trường hợp Tòa án phải qua hai lần giải quyết, phải bằng hai quyết định hoặc bản án của Tòa án cấp sơ thẩm mới giải quyết dứt điểm vụ án hôn nhân và gia đình, chưa tính đến vụ án phải giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Bởi khi đương sự làm đơn xin ly hôn, hoặc là do đương sự tự nguyện, hoặc là do ngại vụ án phức tạp, kéo dài nên một bộ phận cán bộ Tòa án hướng đương sự yêu cầu giải quyết mối quan hệ hôn nhân và con chung trước, còn phần tài sản thì hoặc là không yêu cầu giải quyết hoặc là để lại giải quyết sau. Đây cũng là một trong những lý do để giải thích trong những năm gần đây các vụ án hôn nhân và gia đình tăng về số lượng. Về nguyên tắc của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án phải tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự yêu cầu đến đâu, Tòa án giải quyết đến đó. Vấn đề ở chỗ, qua khảo sát các bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm, các đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm cho thấy nhiều trường hợp do người dân không hiểu pháp luật, cán bộ Tòa án giải thích, hướng dẫn không đến nơi đến chốn, dẫn đến bản án không giải quyết hết yêu cầu của đương sự.
Nguyên nhân cơ bản của tồn tại, thiếu sót:
Các tồn tại, thiếu sót trên xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tác giải xin nêu ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, lượng án hôn nhân và gia đình hằng năm tăng mạnh, tính chất công việc phức tạp trong điều kiện biên chế Thẩm phán, Thư ký Tòa án không tăng, số lượng cán bộ, Thẩm phán tại nhiều đơn vị ngành Tòa án còn thiếu, một số bộ phận còn yếu về trình độ năng lực. Điều này tạo áp lực lớn về tiến độ công việc khi giải quyết loại án này. Chính yêu cầu phải giải quyết nhanh, giải quyết sớm vụ việc đã khiến Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thiếu kiên trì trong hòa giải đoàn tụ, phán quyết vụ việc khi chứng cứ pháp lý chưa chắc chắn, thiếu tính thuyết phục.
Xem Thêm ==> Viết chuyên đề thực tập giá rẻ
Thứ hai, một số văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng, nhưng các cơ quan có thẩm quyền chưa hướng dẫn kịp thời, làm cho việc giải quyết nhiều vụ án có khó khăn và trong một số trường hợp có sai sót. Trong nhiều trường hợp đã có quy định của pháp luật và đã có văn bản hướng dẫn thi hành, nhưng một số Thẩm phán chưa nghiên cứu kỹ, cập nhật, dẫn đến áp dụng sai pháp luật khi giải quyết vụ án. Tinh thần trách nhiệm và ý thức của một bộ phận cán bộ, công chức trong ngành chưa cao đã để xảy ra những sai sót trong chuyên môn.
Thứ ba, trong thực tiễn, vẫn còn quan niệm cho rằng án hôn nhân gia đình là loại án dễ làm, là dạng việc “nhẹ” nhất trong các loại án. Từ quan niệm này, một số ít Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thiếu đầu tư nghiên cứu khi tham gia xét xử. Trong khi đó, theo yêu cầu của xã hội thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử án hôn nhân gia đình phải là người có năng lực tốt về nghiệp vụ, có kiến thức sâu, rộng về hôn nhân, gia đình, xã hội; có tinh thần, trách nhiệm cao với cuộc sống cộng đồng. Tồn tại này có cả trong tâm lý phân công người tiến hành tố tụng của số ít lãnh đạo Tòa án cấp sơ thẩm.
Thứ tư, vẫn còn tình trạng cán bộ Tòa án còn thiếu tinh thần trách nhiệm với công việc và với nhân dân, còn “tránh việc nặng”, giải quyết yêu cầu của nhân dân theo kiểu “dễ làm, khó bỏ”. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến một quan hệ pháp luật tranh chấp bị tách ra làm nhiều vụ án phải thụ lý, giải quyết nhiều lần, gây phiền hà cho đương sự.
3.1.2. Những bất cập và vướng mắc trong áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp
Xã hội ngày càng phát triển, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, cùng lúc kéo theo những biến đổi trong văn hóa, đạo đức xã hội, làm giá trị đạo đức truyền thống trong mỗi gia đình cũng đang dần bị phá vỡ, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt trong các gia đình trẻ dẫn đến việc yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn tăng theo đáng kể. Bên cạnh những ưu việt của pháp luật HN&GĐ hiện hành, nhiều vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luật vẫn còn tồn tại. Tác giả xin chỉ nêu một số vướng mắc dưới góc độ nghiên cứu của bản thân, từ đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện.
3.1.2.1. Về xác định yếu tố công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung khi ly hôn theo điểm b khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ
Quy định này được áp dụng không thống nhất trong thực tiễn xét xử, có Thẩm phán không xem xét yếu tố này khi chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn. Việc xác định các yếu tố khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: như công sức đóng góp, lỗi chưa có tiêu chí cụ thể, rõ ràng nên khó khăn trong công tác xét xử của Tòa án. Qua hoạt động xét xử, có thể do nguyên nhân khách quan hoặc cũng có thể là những yếu tố từ bản thân của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, những nguyên nhân này đã làm cho việc giải quyết những tranh chấp phát sinh liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng gặp không ít khó khăn.
Thực tiễn có nhiều vụ án HN&GĐ liên quan đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn thường có kháng cáo, kháng nghị kéo dài do việc cung cấp, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng, các nghĩa vụ chung của vợ chồng không đầy đủ, rõ ràng.
3.1.2.2. Về các tranh chấp liên quan đến người thứ ba
Việc phân định nguồn gốc hình thành tài sản, xác định đâu là tài sản riêng của một bên, đâu là khối tài sản chung của cả hai vợ chồng cũng như vấn đề cân nhắc, xem xét các yếu tố có liên quan để tiến hành giải quyết các khối tài sản của vợ chồng khi ly hôn là những vấn đề khá phức tạp đối với Tòa án. Đặc biệt, khi khối tài sản của vợ chồng có liên quan đến người thứ ba thì vấn đề lại càng trở nên nan giải. Trong những trường hợp như vậy, Tòa án phải sáng suốt để phân biệt đây có thật sự là khối tài sản chung của vợ chồng hay chỉ là tài sản thuộc quyền sở hữu của người thứ ba là những người Việt Nam định cư ở nước ngoài hay cũng có thể là người Việt Nam, nhưng trong trường hợp này họ không đủ điều kiện để đứng tên sở hữu nhà, QSDĐ cho nên đã gửi tiền cho người thân mua bán và đứng tên hộ. Hoặc cũng có thể vì một lợi ích nào đó, ví dụ như muốn trốn thuế thu nhập cá nhân nên họ không muốn đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà hay QSDĐ. Đây là trường hợp gây khó khăn cho các Tòa trong quá trình xác định tài sản để phân chia. Đồng thời giả sử sau khi chứng minh được tài sản đó do người thứ ba nhờ vợ, chồng đứng tên hộ, thì Tòa án giải quyết thế nào để vừa đảm bảo đúng tinh thần pháp luật vừa đảm bảo quyền lợi cho bên thứ ba. Thực tế cho thấy đường lối giải quyết của Tòa trong nhiều trường hợp là không tương đồng.
Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình theo khoản 2 Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2014. Trong thực hiện, việc xác định trách nhiệm của vợ chồng đối với các khoản nợ có nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hay không thường gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này phụ thuộc vào nhận định của Tòa án, có trường hợp Tòa án cho rằng các khoản nợ phục vụ cho gia đình nên cả vợ và chồng phải có nghĩa vụ trả nợ, có trường hợp cho rằng người chồng hoặc vợ không biết nên chỉ buộc một mình vợ hoặc chồng có nghĩa vụ trả nợ, chủ nợ không đồng ý dẫn đến kháng cáo, khiếu nại kéo dài.
3.1.2.3. Về xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng
Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng luôn là vấn đề phức tạp, các quy định của pháp luật vẫn chưa thực sự cụ thể, rõ ràng. Trong quá trình giải quyết Tòa án gặp nhiều khó khăn. Việc xác định tài sản mà vợ chồng tranh chấp khi ly hôn là tài sản chung hay là tài sản riêng của một bên giữ vai trò hết sức quan trọng khi giải quyết vụ việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Qua thực tiễn xét xử, các vụ án HN&GĐ thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng luôn là vấn đề khá phức tạp. Việc xác định tài sản mà vợ chồng đang tranh chấp khi ly hôn là tài sản chung hay tài sản riêng một cách đúng đắn trước tiên sẽ giúp lựa chọn đúng nguyên tắc để áp dụng cho việc phân chia, mặt khác các tranh chấp sẽ được giải quyết triệt để và bảo vệ quyền lợi tài sản cho cả vợ chồng.
Căn cứ xác định tài sản chung hay tài sản riêng dựa vào thời điểm xác lập tài sản, theo đó các tài sản có trước thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng nếu vợ chồng không nhập vào khối tài sản chung[5]. Vấn đề đặt ra ở đây và gây không ít khó khăn trong thực tiễn tranh chấp tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng là tài sản “có trước khi kết hôn” nên được hiểu như thế nào? Nên hiểu “có” trên thực tế hay “có” trên góc độ pháp lý được xác định dựa trên thời điểm xác định quyền sở hữu đối với tài sản. Sở dĩ có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau như vậy là vì cho đến thời điểm hiện tại, pháp luật liên quan vẫn chưa có những quy định hướng dẫn cụ thể vấn đề này, dẫn đến nhiều cách hiểu trái ngược nhau khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Thiết nghĩ, pháp luật cần bổ sung những quy định cụ thể hướng dẫn này theo hướng công nhận một tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng nếu như tài sản đó đã “có” trên thực tế, tức là chỉ cần có một trong những căn cứ xác lập tài sản đó đã thuộc sở hữu của một bên thì Tòa án sẽ công nhận tài sản đó thuộc sở hữu riêng nếu các bên không có thỏa thuận khác chứ không cần chờ đến khi hoàn tất tất cả hồ sơ giấy tờ công nhận quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Quy định này sẽ đảm bảo quyền lợi cho bên có tài sản, bên cạnh đó hạn chế tình trạng kết hôn nhằm mục đích trục lợi, nhằm chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu riêng của bên còn lại.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản của vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung[6]. Điều này có nghĩa, người nào cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì có nghĩa vụ phải chứng minh. Nhưng trên thực tế việc đánh giá chứng cứ để xác định tài sản riêng hay tài sản chung gặp khó khăn, chủ yếu theo nhận định chủ quan của thẩm phán.
3.1.2.4. Về xác định tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình khi vợ chồng ly hôn
Khi vợ chồng sống chung với một bên gia đình vợ hoặc chồng thì đa phần khối tài sản chung thuộc sở hữu riêng của vợ chồng rất khó tách bạch với khối tài sản chung của gia đình. Do đó, khi ly hôn, việc giải quyết tài sản cho mỗi bên vợ, chồng sao cho hợp lý, hợp tình không giản đơn. Nếu như khối tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, khối tài sản đó sẽ được trích ra khỏi khối tài sản chung của gia đình để giải quyết theo nguyên tắc chung. Trong trường hợp này, giải quyết tài sản của vợ chồng tương đối đơn giản. Ngược lại, trong trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản của gia đình không xác định được theo phần, thì Tòa án căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình để phân chia một phần tài sản trong khối tài sản chung đó cho bên ra đi. Tuy nhiên, việc xác định được một cách chính xác công sức đóng góp của một bên trong việc phát triển khối tài sản chung thì không đơn giản. Thực tế cho thấy, mỗi Tòa có một cách xác định khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì cho đến thời điểm hiện tại pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
3.1.2.5. Về định giá tài sản khi phân chia
Đây cũng là một khó khăn trong công tác áp dụng pháp luật và xét xử của hệ thống Tòa án nói chung và của Tòa án tại Gò Vấp nói riêng. Việc xác định giá trị tranh chấp được xác định theo giá trị thị trường của tài sản khi phân chia. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định được chính xác giá trị tài sản theo giá thị trường là chuyện không đơn giản. Việc này do nhiều nguyên nhân. Một là, tài sản được định giá với tài sản có giao dịch để so sánh và đánh giá giá trị tài sản được định giá thường không thể tương đồng hoàn toàn nên việc xác định giá trị của tài sản tranh chấp cần phân chia không thể chính xác. Hai là, không phải ở đâu giao dịch tài sản cũng thường xuyên diễn ra đặc biệt đối với bất động sản. Nhiều nơi, thị trường bất động sản hầu như không có giao dịch xảy ra. Vì vậy, không có căn cứ để Tòa án, Hội đồng định giá xác định được giá trị thị trường của tài sản cần phân chia.
3.1.2.6. Về chia quyền sử dụng đất được bố mẹ tặng cho chung
Quyền sử dụng đất là một loại tài sản có giá trị lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với hai bên vợ chồng. Chính vì thế, những tranh chấp có liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất luôn gay gắt khi hai vợ chồng ly hôn.
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp một bên hoặc hai bên gia đình tặng cho vợ chồng QSDĐ nhưng không tuân thủ các hình thức do pháp luật quy định. Chẳng hạn, tặng cho nhưng chỉ nói bằng miệng mà không có bất kỳ văn bản nào xác nhận, không có công chứng, chứng thực. Khi quan hệ vợ chồng hòa thuận thì không vấn đề gì nảy sinh, nhưng khi vợ chồng ly hôn thì bố mẹ lại phủ nhận việc tặng cho chung ấy hoặc chỉ thừa nhận là cho mượn hoặc nói rằng chỉ cho con trai hay con gái của họ mà thôi, gây thiệt hại và bất công cho rằng chỉ cho con trai hoặc con gái của họ mà thôi, gây thiệt hại và không công bằng cho một bên vợ hoặc chồng, gây lúng túng cho Tòa án. Để giải quyết tranh chấp này cần phải xác định việc tặng cho bố mẹ là tặng cho chung hay tặng cho riêng. Điều 467 BLDS năm 2005 quy định hình thức của việc tặng cho “phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu”. Như vậy, hợp đồng tặng cho QSDĐ có hiệu lực tại thời điểm đăng ký, tức là “thời điểm cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chính thức ghi nhận việc tặng cho vào văn bản những thông tin cần thiết của sự kiện tặng cho”. Bên cạnh đó, việc tặng cho quyền sử dụng đất cho vợ chồng phải trên cơ sở tự nguyện của bố mẹ. Như vậy, theo quyết định của pháp luật thì chỉ sau khi người được tặng cho đăng ký QSDĐ, lúc đó mới coi là tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng. Dù pháp luật đã quy định hình thức giao dịch như vậy, nhưng thực tiễn xét xử, Tòa án vẫn công nhận QSDĐ của vợ chồng người con nếu cha mẹ thừa nhận trước kia đã cho vợ chồng người con QSDĐ và vợ chồng người con đã sử dụng ổn định (xây dựng nhà ở, trồng cây trái…).
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
3.2.1. Hoàn thiện quy định về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn căn cứ vào công sức đóng góp
Việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng đối với khối tài sản chung trong vụ án hôn nhân và gia đình là vấn đề khó khăn, phức tạp. Cho đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn trường hợp nào tính công sức, trường hợp nào không được tính công sức và việc định lượng công sức như thế nào cho hợp lý. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án HN&GĐ, tác giả xin có một số kiến nghị khi xem xét công sức trong vụ án HN&GĐ như sau: Cần xác định có công sức hay không? là công sức tạo lập, phát triển tài sản; công sức giữ gìn, bảo quản tài sản; hay công sức chăm sóc, nuôi dưỡng… và việc tính công sức phải dựa vào các tiêu chí: nguồn gốc tài sản, sức lực, thời gian bảo quản, giữ gìn; kết quả chi phí sức lực, thời gian cho việc bảo quản, giữ gìn; giá trị tài sản. Đặc biệt, người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cần ưu tiên xem xét tới yếu tố công sức đóng góp để chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
3.2.2. Hoàn thiện quy định về thời điểm xác lập tài sản riêng của vợ chồng
Luật hôn nhân và gia đình không quy định cụ thể và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không có bất kỳ quy định nào hướng dẫn về thời điểm xác định khối tài sản riêng của vợ chồng. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về thời điểm “có” tài sản. Nếu áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự để xác định tài sản thì không đảm bảo được quyền lợi cho chủ sở hữu và không phù hợp với căn cứ xác lập tài sản chung. Do đó, tác giả kiến nghị pháp luật cần bổ sung quy định hướng dẫn theo hướng công nhận thời điểm xác lập tài sản riêng là thời điểm “có” tài sản trên thực tế. Theo đó, tại khoản 1 Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 cần sửa đổi như sau: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có được trên thực tế trước khi hôn nhân; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân,…”. Quy định này tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật và đảm bảo được quyền lợi của vợ, chồng – chủ sở hữu tài sản khi ly hôn.
Xem Thêm ==> 999+ chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật
3.2.3. Hoàn thiện quy định về xác định tài sản chung của vợ chồng
Luật HN&GĐ năm 2014 đã có định nghĩa tài sản chung của vợ chồng theo phương pháp liệt kê. Theo đó tài sản chung của vợ chồng bao gồm: tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp tài sản chung của vợ chồng đã được phân chia trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của Luật HN&GĐ; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng[7]. Đây là vấn đề cơ bản cần phải xác định khi có yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định chính xác tài sản chung của vợ chồng là cơ sở, điều kiện tiên quyết để phân chia tài sản chung của vợ chồng được đúng đắn. Vì vậy, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc xác định tài sản chung của vợ chồng.
Thứ nhất, luật thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận. Tuy nhiên, các quy định liên quan đến thỏa thuận tài sản của vợ chồng còn chung chung, chưa rõ ràng. Pháp luật cần có quy định hướng dẫn để vợ chồng dễ dàng áp dụng trong việc thỏa thuận xác định tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng; căn cứ xác định tài sản là tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng nếu tài sản được hình thành, phát triển trong thời kỳ hôn nhân; các trường hợp, điều kiện, nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng (nếu có)…Thỏa thuận vợ chồng về tài sản cần có tính ổn định; việc thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung cần đáp ứng các điều kiện nhất định góp phần ổn định các quan hệ xã hội, tránh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người thứ ba.
Thứ hai, các quy định về việc nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung của vợ chồng cần phải có sự quy định rõ ràng thể thức của thỏa thuận sáp nhập tài sản đó. Đối với những quan hệ sáp nhập tài sản riêng vào tài sản chung trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực cũng như các quy định khác về đăng ký tài sản, các nhà làm luật cần xây dựng các án lệ để tạo ra những quy tắc chung giúp có căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng trong những tình huống như vậy trên căn cứ nguyên tắc suy đoán.
Thứ ba, đối với các tài sản có giá trị lớn bất động sản, xe ô tô… pháp luật về đăng ký tài sản cần quy định rõ việc ghi nhận quyền sở hữu chung của các đồng chủ sở hữu (cả vợ và chồng) nếu đó là tài sản chung. Pháp luật cần quy định thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện để việc đăng ký sở hữu tài sản được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tâm lý do ngại thủ tục hành chính phức nên không muốn thực hiện quyền lợi của mình trên thực tế.
[1] khoản 1 điều 29, Luật hôn nhân và gia đình 2014 [2] khoản 2 Điều 59, Luật hôn nhân và gia đình 2014 [3] điểm c khoản 2 Điều 59, Luật hôn nhân và gia đình 2014 [4] điều 64, Luật hôn nhân và gia đình 2014 [5] Điều 33 và Điều 44, Luật HN và GĐ 2014 [6] , Khoản 3 Điều 33, Luật HN và GĐ 2014 [7] khoản 1 Điều 33, Luật HN và GĐ 2014
Trên đây là mẫu chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Nguyên tắc và hậu quả pháp lý trong việc chia sẻ tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được chia sẻ miễn phí, các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây. Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên, nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149