Các ngoại lệ chung của Gatt 1994 vào giải quyết tranh chấp trong WTO

Rate this post

Download miễn phí chuyên dề tốt nghiệp: Các ngoại lệ chung của Gatt 1994 vào giải quyết tranh chấp trong WTO dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Các ngoại lệ chung của Gatt 1994 vào giải quyết tranh chấp trong WTO được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


ĐỀ CƯƠNG BÁO  CÁO THỰC TẬP: ÁP DỤNG CÁC NGOẠI LỆ CHUNG TRONG HIỆP ĐỊNH GATT 1994 QUA CÁC VỤ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO

  1. Tính cấp thiết của đề tài báo cáo thực tập:

Hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại đã và đang trở thành xu thế của kinh tế thế giới mới. Các quốc gia liên kết với nhau thành những tổ chức thương mại để dễ dàng phát triển và tổ chức thương mại lớn nhất hiện nay là WTO, với những mục tiêu lớn như: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển thể chế thị trường, bảo vệ môi trường, giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên, nâng cao mức sống… WTO đã trở thành chuẩn mực chung cho thương mại thế giới. Với nguyên tắc nền tảng Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia nhằm tạo ra một môi trường  bình đẳng, không phân biệt đối sử, công bằng cho tất cả các nước thành viên.

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994 là một trong những hiệp định quan trọng của WTO, song song với các nguyên tắc nền tảng trên, GATT còn đưa ra các ngoại lệ của những nguyên tắc này nhằm bảo vệ những giá trị cốt lõi như an ninh, lợi ích quốc phòng, sức khỏe con người, truyền thống lịch sử, tài nguyên quý hiếm.… của mỗi quốc gia. Theo đó các nước thành viên có thể áp dụng các biện pháp trái với các nguyên tắc trên trong phạm vi cho phép khi thực thi nghĩa vụ của mình để bảo vệ những giá trị tiên quyết của mình.

Tuy nhiên, trong những tranh chấp với các quốc gia thành viên những nguyên tắc nên tảng này thường xuyên bị vi phạm vì nhiêu lý do nhưng chủ yếu vẫn là từ nhu cầu bảo hộ sản phẩm trong nước. trong nhiều trường hợp họ đã viện dẫn những ngoại lệ chung trong  GATT được quy định tại điều XX,  để biện minh cho vi phạm của mình. Điều này làm mất đi giá trị cốt lõi của các ngoại lệ là bỏ qua lợi ích về thương mại để bảo vệ những giá trị tiên quyết và cấp thiết hơn.

Những ngoại lệ chung  được quy định trong điều XX Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994 giúp các quốc gia thành viên giải quyết những khó khăn trong quá trình thực thi những cam kết và nghĩa vụ mà có liên quan chủ quyền, an ninh, tài nguyên môi trường, truyền thống đạo đức… Nhưng việc vận dụng những ngoại lệ này không phải dễ dàng bởi chưa có một quy định chung nào cho tất cả các vụ việc, việc áp dụng nó tùy thuộc vào từng vụ tranh chấp cụ thể, gây khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp.

Việt nam chúng ta là một thành viên chính thức của W  thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ đã cam kết. Xong các ngoại lệ đang ngày càng bị vận dụng như một rào cản thương mại, Việt Nam cũng đang dần tham gia sâu vào WTO vậy nên rủi ro gặp phải tranh chấp liên quan đến các ngoai lệ chung là không thể tránh khỏi. đồng thời việc vận dụng những ngoại lệ này để bảo vệ những lợi ích cốt lõi cho đất nước hết sức là quan trong trong tương lai gần.

Nhận thấy được tính cấp thiết, ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc hiểu biết và vận dụng các ngoại lệ chung trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, người viết lựa chọn đề tài “Áp dụng các ngoại lệ chung trong hiệp định GATT 1994, qua các vụ việc giải quyết tranh chấp của WTO” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

  1. Mục tiêu nghiên cứu
  • Mục tiêu tổng quát:

Xác định được những quy định liên quan đến các ngoại lệ chung trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994 từ đó hiểu rõ hơn về các ngoại lệ này.  Đi sâu vào phân tích một số những vụ tranh chấp điển hình trong WTO liên quan đến vấn đề này cũng từ đó nắm bắt được việc áp dụng các ngoại lệ chung. Rút ra những bài học cốt lõi, và đưa ra một số những đề xuất.

  • Mục tiêu cụ thể:

Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các ngoại lệ chung trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994. Cụ thể là các vấn đề về nguyên tắc Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia, phân biệt ngoại lệ và miễn trừ, nội dung của các ngoại lệ chung này, điều khiện và trình tự áp dụng nó, thực tiễn áp dụng các ngoại lệ chung này trên cơ sở phân tích các vụ tranh cấp điển hình đưa ra được những đánh giá chung về thực tiễn đã nghiên cứu, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam,  đề xuất một số vấn đề về xây dựng và hực thi chính sách, về đàm phán thương mại quốc tế, tham gia tranh tụng thương mại quốc tế và một số đề xuất khác.

  1. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
  • Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các ngoại lệ chung trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, được quy định tại điều XX của hiệp định này, cũng như việc áp dụng các ngoại lệ này trong việc giải quyết tranh chấp.

  • Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các ngoại lệ chung được quy định tại điều XX Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, các vụ tranh chấp liên quan đến các ngoại lệ chung trong khuôn khổ WTO. Thời gian từ khi WTO ra đời đến nay.

  1. Nội dung nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

–  Nội dung cuả nguyên tắt Tối huệ quốc và Đối xử  quốc gia, tạo ra một môi trường thương mại không phân biệt đối xử, và nó thì có ngoại lệ.

–  Phân biệt ngoại lệ và miễn trừ, đưa ra khái niệm của ngoại lệ và miễn trừ từ đó đưa ra điểm giống và khác nhau của hai khái niệm.

–  Phân tích nội dung của từng ngoại lệ chung trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994.

–  ý nghĩa và vai trò quan trọng của các ngoại lệ chung trong việc bảo vệ giá trị cốt lõi của mỗi quốc gia thành viên

–  điều kiện và trình tự áp dụng các ngoại lệ chung

4.2. Thực tiễn

–  Tổng quan về việc vận dụng các ngoại lệ chung: Việc áp ngoại lệ chung vào các vụ tranh chấp đa số đều thất bại trong các vụ khiện,  bản thân quy định này không đưa ra một cơ sở pháp lý đầy đủ để giải quyết các vụ tranh chấp.

– phân tích các vụ tranh chấp điển hình đưa ra đánh giá chung về thực tiễn áp dụng các ngoại lệ chung

4.3. Đề xuất

Đề xuất một số vấn đề về xây dựng và thực thi chính sách, về đàm phán thương mại quốc tế, tham gia tranh tụng thương mại quốc tế và một số đề xuất khác.

  1. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Tổng hợp, phân tích và hệ thống hóa, so sánh, quy nạp…

  1. Kết cấu đề tài báo cáo thực tập

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ viết tắt, khóa luận gồm 3 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về các ngoại lệ chung trong hiệp định GATT 1994
  • Chương 2: Thực tiễn các ngoại lệ chung của GATT 1994 vào giải  quyết tranh chấp trong WTO
  • Chương 3: Khinh nghiệm cho việt nam và một số đề xuất kiến nghị

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NGOẠI LỆ CHUNG TRONG HIỆP ĐỊNH GATT 1994

1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc và Đối sử quốc gia trong GATT 1994

1.1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc

1.1.2. Nguyên tắc Đối sử quốc gia

1.2. Các ngoại lệ chung trong Hiệp định GATT 1994

1.2.1. Phân biệt ngoại lệ và miễn trừ

1.2.2. nội dung của các ngoại lệ chung

1.2.2. ý nghĩa và vai trò của các ngoại lệ chung

1.3. Áp dụng các ngoại lệ để giải quyết tranh chấp trong WTO

1.3.1. Giải quyết trang chấp trong WTO

1.3.2. Điều kiện áp dụng các ngoại lệ chung

1.3.3. Trình tự áp dụng các ngoại lệ chung trong GATT 1994

Chương 2: THỰC TIỄN CÁC NGOẠI LỆ CHUNG CỦA GATT 1994 VÀO GIẢI  QUYẾT TRANH CHẤP TRONG WTO

2.1. Tổng quan về việc vận dụng các ngoại lệ chung của GATT 1994

2.2. Phân tích một số vụ tranh chấp điển hình

2.2.1. Mĩ – Tôm DS58

2.2.2. EU – Hải cẩu DS401

2.2.3. Thái Lan – Thuốc lá DS371

2.2.4. Hàn Quốc – Các biện pháp áp dụng đối với thịt bò DS161 – DS169

2.2.5. Mỹ – Cá ngừ DS381

2.3. Đánh giá chung về thực trạng vận dụng các ngoại lệ chung của GATT 1994

Chương 3: KHINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

3.1. kinh nghiệm cho Việt Nam

3.2. Đề xuất cho Việt Nam

3.2.1. Đề xuất về việc xây dựng và thực hiện chính sách

3.2.2. Đề xuất về việc đàm phán thương mại quốc tế

3.2.3. Đề xuất tham gia tranh tụng thương mại quốc tế

3.2.4. Một số đề xuất khác

KẾT LUẬN


Xem Thêm ==> Cơ sở lý luận về các ngoại lệ chung trong hiệp định Gatt 1994

Chương 2: THỰC TIỄN CÁC NGOẠI LỆ CHUNG CỦA GATT 1994 VÀO GIẢI  QUYẾT TRANH CHẤP TRONG WTO

2.1. Tổng quan về việc vận dụng các ngoại lệ chung của GATT 1994

Điều XX là một điều khoản quan trọng trong GATT vì điều này liệt kê các ngoại lệ pháp lý mà các nước thành viên WTO có thể viện dẫn nhằm giải thích cho các biện pháp họ đã áp dụng để hạn chế thương mại mà có thể bị coi là vi phạm các quy tắc của GATT. Điều khoản ngoại lệ này làm phát sinh vấn đề pháp lý liên quan đến sự cân bằng giữa chính sách ngoại lệ chung của GATT 1994 và bảo vệ tự do thương mại. Đã có rất nhiều các vụ việc giải quyết tranh chấp thương mại xảy ra giữa các thành viên WTO liên quan đến việc giải thích phạm vi của các ngoại lệ được quy định ở Điều XX dựa trên việc phân tích các quyết định và vụ việc ở các cấp giải quyết tranh chấp của WTO. Một số vụ, thậm chí, mang ý nghĩa nền tảng đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, như vụ tranh chấp “cá hồi Úc”  giữa Úc và CanGATT, vụ tranh chấp “tôm – rùa biển”  giữa Mỹ và các nước Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Malaysia; vụ tranh chấp “amiăng của EU”  giữa EC và CanGATT…. Có thể thấy trên thực tế là những ngoại lệ này được các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO giải thích rất hẹp và chặt chẽ, không thể được sử dụng rộng rãi để biện minh cho việc không tuân thủ các quy định của GATT. Bất kỳ chính phủ nào viện dẫn một trong các ngoại lệ đều không được sử dụng ngoại lệ theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay một cách phi lý giữa hàng hoá của các nước khác nhau, hay tạo ra một “sự hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế”.

2.2. Phân tích một số vụ tranh chấp điển hình

2.2.1. Mĩ – Tôm DS58

Vụ kiện gồm các bên nguyên đơn Ấn Độ, Malaysia, Pakistan, Thái Lan, bị đơn là Hoa Kỳ và các bên thứ 3 gồm các nước Úc, Colombia, Costa Rica, EU, Ecuador, El Salvador, Guatemala, Hongkong, Nhật Bản, Mexico, Nigeria, Philipines, Senegal, Singapore, Sri Lanka và Venezuela. Tháng 10/1996, Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ liên quan đến lệnh cấm nhập khẩu đối với tôm và các sản phẩm tôm nhập khẩu từ các nước nguyên đơn do Hoa Kỳ áp dụng theo Mục 609 trong Luật Công 101-162 của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ bị khiếu nại đã vi phạm các Điều I, XI và XIII của GATT cũng như là đã làm vô hiệu hóa và phương hại đến các lợi ích mà các nước nguyên đơn đáng lẽ được hưởng. Hoa Kỳ cho rằng các biện pháp liên quan được đưa ra theo Mục 609 là được phép thực hiện theo Điều XX (b) và (g) của GATT. Năm 1998, cả hai phán quyết của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đều kết luận rằng biện pháp cấm nhập khẩu tôm mà Mỹ áp dụng không được coi là một trường hợp ngoại lệ theo Điều XX GATT. Hoa Kỳ là bên thua kiện.

   Vấn đề pháp lý được đặt ra trong vụ việc này là liệu biện pháp cấm nhập khẩu tôm mà Hoa Kỳ đưa ra tại Mục 609 đạo luật 101-102 có thể viện dẫn lý do nêu tại Khoản (b) và (g) Điều XX GATT? Và biện pháp này Hoa Kỳ thực hiện trên thực tế có phù hợp với Phần Mở đầu của Điều XX GATT hay không?

Ban hội thầm cho rằng đoạn mở đầu của Điều XX GATT cấm áp dụng bất kì biện pháp nào mang tính chất “không công bằng hoặc phân biệt đối xử một cách vô lý” giữa các quốc gia “trong các điều kiện như nhau”. Ở vụ việc này, Hoa Kỳ áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu tôm với tất cả các thành viên WTO nào xuất khẩu vào Hoa Kỳ tôm được đánh bắt một cách công nghiệp từ những vùng nước nơi có cá tôm và rùa biển sinh sống. Ban hội thẩm xác định rằng tất cả các thành viên này là “những quốc gia trong các điều kiện như nhau”. Việc Hoa Kỳ cho phép nhập khẩu tôm từ các quốc gia “đã được xác nhận” và áp dụng lệnh cấm nhập khẩu tôm từ các quốc gia “không được xác nhận” được coi là sự phân biệt đối xử. Vì thế, biện pháp cấm nhập khẩu tôm của Hoa Kỳ không được phép áp dụng Điều XX vì biện pháp đó làm hại hệ thống thương mại đa phương và do đó không đáp ứng các yêu cầu của đoạn mở đầu Điều XX GATT.

Cơ quan phúc thẩm tuyên bố rằng theo nguyên tắc của WTO, các quốc gia có quyền tiến hành các biện pháp thương mại để ngoại lệ chung của GATT 1994 (đặc biệt khi liên quan đến sức khỏe con người, động vật hay bảo tồn thực vật) cũng như việc bảo vệ các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng hay các nguồn tài nguyên đang cạn kiệt. Tuy nhiên, Mỹ đã tạo ra hành vi phân biệt đối xử giữa các thành viên WTO. Họ cung cấp cho các nước Tây bán cầu – chủ yếu là các nước vùng Caribê – hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cũng như thời kỳ quá độ chuyển đổi lâu hơn để cho ngư dân tại các nước này có thể bắt đầu sử dụng các thiết bị đánh bắt “loại trừ rùa”, nhưng họ đã không cho 4 nước châu Á (Ấn độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan) những ưu đãi như vậy. Cơ quan phúc thẩm kết luận rằng: “Mặc dù biện pháp mà Mỹ áp dụng và là đối tượng chính của vụ kiện nhằm mục tiêu môi trường được công nhận là chính đáng theo Khoản (g) Điều XX của GATT, nhưng nó lại được Mỹ áp dụng theo một cách độc đoán và không có lý do chính đáng giữa các thành viên của WTO, điều này trái với những quy định trong phần mở đầu của Điều XX. Căn cứ vào tất cả những lý do cụ thể được nêu trong bản báo cáo, biện pháp nêu trên không được hưởng chế độ ngoại lệ như quy định trong Điều XX GATT 1994. Điều khoản này nói về những biện pháp nhằm vào một số mục tiêu ngoại lệ chung của GATT 1994 được thừa nhận là chính đáng và khi được áp dụng thì không gây ra tình trạng phân biệt đối xử một cách độc đoán và không có lý do chính đáng giữa các quốc gia có những điều kiện giống nhau, tức là được coi như một hình thức trá hình nhằm hạn chế mậu dịch quốc tế.”

Có thể thấy, với phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, Hoa Kỳ đã thua kiện. Ở đây, chính sách không nhập khẩu tôm từ những nước đánh bắt tôm không đạt tiêu chuẩn của Hoa Kỳ được đưa ra với mục đích ngoại lệ chung của GATT 1994 theo Khoản (g) Điều XX GATT là phù hợp, nhưng cách Hoa Kỳ thực hiện quy định trên đã không phù hợp với lời mở đầu Điều XX GATT. Việc Hoa Kỳ chỉ tiến hành đàm phán và ưu đãi cho một số nhóm nước nhất định đã thể hiện sự “phân biệt đối xử một cách độc đoán và không có lý do chính đáng giữa các quốc gia có những điều kiện như nhau”. Vì vậy, biện pháp của Hoa Kỳ không thể được lý giải bằng ngoại lệ chung tại Khoản (g) Điều XX GATT.

2.2.2. EU – Hải cẩu DS401

vào tháng 5/2009, Na Uy yêu cầu Tham vấn với Cộng đồng chung Châu Âu (EC) liên quan đến Quy định số 1007/2009 của Nghị viện Châu Âu và của Hội đồng chung Châu Âu vào ngày 16/9/2009 về việc mua bán sản phẩm hải cẩu và các biện pháp liên quan tiếp theo (“Chế độ về Hải cẩu của EC”). Theo Na Uy, cơ chế của EC cấm việc nhập khẩu và mua bán những sản phẩm hải cẩu qua chế biến và chưa chế biến, trong khi vẫn duy trì những ngoại lệ ưu tiên tiếp cận thị trường EU đối với các sản phẩm hải cẩu có nguồn gốc từ EC và các nước thứ ba, trừ Na Uy. Na Uy khiếu nại rằng các biện pháp trên là không phù hợp với nghĩa vụ của EC theo Điều 4.2 Thoả ước Nông nghiệp; Điều 2.1 và 2.2 của Thoả ước về Hàng rào kỹ thuật; Điều I:1, III:4 và XI:1 của GATT. Tháng 11/2009, Ireland yêu cầu tham gia Tham vấn. Ngày 20/11/2009 CanGATT cũng yêu cầu tham gia Tham Vấn.

Na Uy cho rằng cơ chế EU áp đặt một lệnh cấm trên việc nhập khẩu và mua bán sản phẩm hải cẩu và thiết lập những ngoại lệ mang tính phân biệt đối xử trong đó ưu tiên cho các sản phẩm hải cẩu có nguồn gốc từ EU và nước thứ ba. Na Uy còn khiếu nại thêm rằng cơ chế EU cũng bao gồm hệ thống các yếu tố yêu cầu việc xác nhận sản phẩm hải cẩu phù hợp với những điều kiện liên quan để được phép hiện diện tại thị trường Châu Âu là mang tính phân biệt đối xử và hạn chế thương mại ở một số khía cạnh.

Na Uy cho rằng cơ chế EU là không phù hợp với Điều 2.1, 2.2, 5.1, 5.2, 5.4, 5.6, 6.2, 7.1, 7.5, 8.1 và 8.2 của Thoả thuận TBT; Điều I:1, III:4 và XI:1 của GATT.

Vào ngày 28/10/2010, CanGATT yêu cầu tham gia tham vấn bổ sung. Tháng 3/2011, Na Uy yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Vào cuộc họp ngày 25/3/2011, Ban giải quyết tranh chấp (DSB) trì hoãn việc thành lập Ban hội thẩm. Tại cuộc họp ngày 21/4/2011, DSB thiết lập Ban hội thẩm xem xét vụ việc. Bên thứ ba: Agrentina, CanGATT, China, Colombia, Ecuador, Ireland, Japan, Mexico, Namibia và Hoa Kỳ. Vào tháng 11/2013, báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển cho các thành viên.

Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO ra phán quyết rằng vụ tranh chấp liên quan đến quy định của EU cấm nhập khẩu và tiếp cận thị trường của sản phẩm hải cẩu. Cơ chế EU cũng đưa ra những ngoại lệ khác nhau đối với việc cấm đoán này theo những điều kiện nhất định, trong đó bao gồm các sản phẩm hải cẩu được đánh bắt bởi cư dân Inuit hoặc cộng đồng bản địa (IC exception) và những hành vi săn bắt thực hiện với mục đích quản lý nguồn thuỷ hải sản (MRM exception).

Ban hội thẩm quyết định rằng cơ chế EU là quy định mang tính kỹ thuật và cơ chế này không vi phạm điều 2.2 của TBT bởi vì nó thực hiện mục tiêu nhân danh đạo đức công cộng vì lợi ích bảo vệ hải cẩu trong một phạm vi nhất định và không có biện pháp thay thế nào được thể hiện để tạo nên sự đóng góp tương đương hoặc lớn hơn nhằm thực hiện mục tiêu này.

Ban hội thẩm kết luận rằng ngoại lệ IC theo cơ chế EU vi phạm Điều I:1 của GATT bởi vì một đặc lợi được ban bố bởi EU đối với sản phẩm có nguồn gốc từ Greenland (đặc biệt, với dân cư Inuit) là không tuân theo nguyên tắc “ngay lập tức” và “vô điều kiện” đối với sản phẩm tương tự từ Na Uy. Liên quan đến ngoại lê MRM, Ban hội thẩm cho rằng nó đã vi phạm Điều III:4 của GATT bởi vì nó quy định các biện pháp đối xử kém thuận lợi đối với các sản phẩm hải cẩu nhập khẩu so với các sản phẩm nội địa tương tự. Ngoại Lệ IC và MRM không công bằng theo Điều XX (a) của GATT (“sự cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng”) bởi vì nó không đáp ứng yêu cầu theo Điều XX. Ban hội thẩm cũng tìm thấy thêm rằng EU đã không thực hiện prima facie case để nói lên rằng cơ chế EU là công bằng theo Điều XX của GATT. EU đã hành động không phù hợp với nghĩa vụ theo Điều 5.1.2 của Thoả ước TBT bởi Thủ tục đánh giá sự phù hợp theo cơ chế EU không áp dụng việc cấm mua bán những sản phẩm đạt chất lượng tiến hành từ ngày cơ chế EU có hiệu lực.

Liên quan đến việc khiếu nại theo Điều 5.2.1 của Thoả ước TBT, Ban hội thẩm kết luận rằng bên nguyên đơn đã không phản đối EU về việc hành động không phù hợp với các nghĩa vụ để thực hiện và hoàn chỉnh Thủ tục đánh giá sự phù hợp một cách nhanh chóng có thể.

Ban Hội Thẩm từ chối những khiếu nại theo Điều XI:1 của GATT và Điều 4.2 của Thoả ước Nông nghiệp và qua xem xét những tình tiết nêu trên, Ban hội thẩm đã xét thấy không cần thiết phải ban hành phán quyết đối với những khiếu nại này, theo Điều XXIII:1(b) của GATT.

Ngày 24/01/2014, Na Uy thông báo DSB quyết định của mình về việc kháng cáo đến Cơ quan phúc thẩm liên quan đến những vấn đến pháp luật và giải thích luật của Ban hội thẩm. Ngày 29/01/2014, EU cũng kháng cáo với nội dung tương tự. Ngày 22/5/2014, Báo cáo của Ban phúc thẩm đã được chuyển đến cho các thành viên.

Cơ quan phúc thẩm giữ nguyên quyết định của Ban hội thẩm rằng cơ chế hải cẩu của EU là quy định mang tính kỹ thuật với định nghĩa quy định tại Điều 1.1 TBT. Đăc biệt, Cơ quan phúc thẩm của giữ y phán quyết của Ban hội thẩm rằng cơ chế EU đã đưa ra những đặc điểm của sản phẩm đúng như định nghĩa tại Phụ lục 1.1. Cơ quan phúc thẩm tán thành phán quyết của Ban hội thẩm rằng cơ chế hải cẩu EU là không phù hợp với Điều I:1 bởi vì nó không “ngay lập tức” và “vô điều kiện” cho phép việc tiếp cận thị trường một cách bình đẳng đối với sản phẩm hải cẩu của CanGATT và Na Uy so với sản phẩm có nguồn gốc từ Greenland. Cơ quan phúc thẩm giữ nguyên phán quyết của Ban hội thẩm rằng cơ chế hải cẩu EU là “cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng” theo định nghĩa tại Điều XX (a) của GATT.

Hay trong vụ kiện Trung Quốc – Các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại và dịch vụ phân phối đối với các sản phẩm nghe nhìn và xuất bản.  Trung Quốc đã cho rằng các sản phẩm đọc và nghe nhìn như sách, tạp chí, báo, sản phẩm điện tử… là hàng hoá chứa đựng nội dung văn hoá và đã giới hạn quyền nhập khẩu cũng như phân biệt đối xử với các nhà cung cấp nước ngoài. Cơ quan phúc thẩm cho rằng Trung Quốc đã không chứng minh được rằng các điều khoản liên quan là “cần thiết” để bảo vệ đạo đức công cộng và Trung Quốc đã không viện dẫn hợp lý Khoản (a) Điều XX GATT. Ở góc độ của người nghiên cứu, tác giả cho rằng việc cho phép nhập khẩu sách, báo, phim khó mà ảnh hưởng đến đạo đức công cộng. Việc này khác hẳn hành vi nhập khẩu ma tuý hay các dịch vụ cờ bạc, cá cược.

3.2 Khoản (b) và (g) của Điều XX là một trong những ngoại lệ quan trọng cho pháp các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khoẻ con người, động vật, thực vật và ngoại lệ chung của GATT 1994. Như đã trình bày, lời mở đầu của Điều XX được đưa ra nhằm đảm bảo rằng các thành viên không được lạm dụng những trường hợp ngoại lệ này bằng cách sử dụng chúng như những công cụ trá hình trong việc phân biệt đối xử hàng hoá giữa các nước thành viên hoặc hạn chế thương mại đối với nhau.

2.2.3. Thái Lan – Thuốc lá DS371

Theo Luật thuốc lá 1996, Thái Lan hạn chế nhập khẩu thuốc lá và nguyên liệu làm thuốc lá, nhưng lại cho phép việc buôn bán nội địa; thêm vào đó, thuốc lá bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế kinh doanh. Thái Lan viện dẫn Điều XX (b) GATT và cho rằng việc cấp nhập khẩu là để bảo vệ sức khoẻ người dân, vì thuốc lá nhập khẩu có chứa thành phần nguy hiểm và gây nghiện và nó có hại hơn thuốc lá Thái Lan. Ban hội thẩm kết luận rằng việc hạn chế nhập khẩu là không cần thiết theo nghĩa của Điều XX (b) GATT.

Xem Thêm ==> Viết chuyên đề thực tập , giá rẻ

2.2.4. Hàn Quốc – Các biện pháp áp dụng đối với thịt bò DS161 – DS169

Tham vấn Do Hoa Kỳ khởi kiện. Ngày 01/02/1999, Hoa Kỳ yêu cầu tham vấn với Hàn Quốc về việc nước này phân biệt đối xử với thịt bò nhập khẩu khi hạn chế việc bán thịt bò nhập khẩu tại các cửa hàng chuyên biệt (hệ thống bán lẻ kép), hạn chế cách thức trưng bày hàng bán và các biện pháp khác nhằm hạn chế cơ hội bán hàng của thịt bò nhập khẩu. Hoa Kỳ cáo buộc những động thái này của Hàn Quốc làm tăng giá vốn của thịt bò nhập khẩu, hạn chế quyền nhập khẩu đối với một số nhóm nhất định là các “super-group” và Tổ chức LPMO (Livestock Producers Marketing Organization) đồng thời hỗ trợ ngành công nghiệp chăn nuôi nội địa. Hoa Kỳ cho rằng Hàn Quốc đã vi phạm Hiệp định về nông nghiệp khi hạn chế nhập khẩu thịt bò và trợ cấp cho ngành công nghiệp chăn nuôi nội địa. Hoa Kỳ khẳng định Hàn Quốc đã vi phạm điều II,III,XI và XVII của GATT 1994, điều 3, 4, 6, 7 của Hiệp định về nông nghiệp và điều 1, 3 của Hiệp định nhượng quyền nhập khẩu.

Ngày 13/04/1999, Australia yêu cầu tham vấn với Hàn Quốc về vấn đề tương tự trên của Hoa Kỳ. Ngày 15/04/1999, Hoa Kỳ yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm cho vụ kiện WT/DS161.Tại cuộc họp ngày 28/04/1999, DSB trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm.

Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc Thẩm và Ban Hội thẩm: Theo yêu cầu lần thứ hai của Hoa Kỳ, DSB đã quyết định thành lập Ban Hội thẩm tại cuộc họp ngày 26/05/1999. Các bên thứ ba gồm: Australia, CanGATT và New Zealand. Sau yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm cho vụ kiện WT/DS169 của Australia, tại cuộc họp ngày 26/07/1999, DSB đã 2/3 quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Các bên thứ ba gồm: CanGATT, New Zealand và Hoa Kỳ. Theo yêu cầu của Hàn Quốc, theo Điều 9.1 của DSU, DSB đã đồng ý cho phép Ban Hội thẩm của vụ kiện WT/DS161 điều tra chung cho cả hai vụ kiện này. Ngày 04/08/1999, Ban Hội thẩm chính thức được thành lập và ngày 31/07/2000, Ban Hội thẩm công bố báo cáo tới các thành viên. Báo cáo chỉ ra: Một số biện pháp nêu trong bản ghi nhớ của Kế hoạch thương lượng của Hàn Quốc từ giai đoạn chuyển đổi tới 02/01/2001 vẫn còn tồn tại trong khi lẽ ra nó phải được xóa bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp với cam kết WTO. Yêu cầu LPMO chỉ được phân phối thịt bò cho một số cửa hàng bán thịt bò nhập khẩu chuyên biệt và các cửa hàng này phải treo biển “Cửa hàng bán thịt bò nhập khẩu chuyên biệt” là vi phạm điều III:4 của GATT1994, và không được phân xử theo điều XX(d) của GATT1994. Yêu cầu người nhập thịt bò ghi chép lại nghiêm ngặt lượng mua bán vi phạm điều III:4. Các qui định của Hàn Quốc về nhập khẩu và phân phối khác nói chung đều vi phạm điều III:4. Do LPMO thiếu và chậm trễ trong việc thuê bốc dỡ hàng hóa khiến hạn chế nhập khẩu từ tháng 11/1997 đến 05/1998 vi phạm điều XI:1 của GATT1994 và điều 4.2 của Hiệp định nông nghiệp (AoA). Hơn nữa, việc LPMO thuê bốc dỡ hàng cho gia súc nuôi bằng cỏ và gia súc nuôi bằng cám khác nhau vi phạm điều XI:1. Việc Hàn Quốc ít ưu tiên nhập khẩu thịt bò nuôi ăn cỏ hơn cũng vi phạm điều II:1(a) của GATT1994. Thêm vào đó, những hỗ trợ của Hàn Quốc cho ngành công nghiệp nội địa từ năm 1997 đến 1998 đã không được tính toán chính xác và, trên thực tế đã vượt quá mức tối thiểu cho phép – điều này vi phạm điều 6 của Hiệp định AoA, và những hỗ trợ này không được nêu trong bản tổng hợp các hỗ trợ nội địa (AMS) là vi phạm điều 7.2(a) của Hiệp định AoA. Tổng giá trị hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa của Hàn Quốc năm 1997 và 1998 đã vượt quá mức cam kết của nước này mà đã được nêu trong phần IV của Bản kế hoạch và vi phạm điều 3.2 của Hiệp định AoA. Ngày 11/09/2000, Hàn Quốc kháng án những kết luận của Ban Hội thẩm. Ngày 11/12/2000, Ban Phúc thẩm ban hành báo cáo phúc thẩm. Trong đó, Ban Phúc thẩm bác bỏ kết luận của Ban Hội thẩm về tổng giá trị hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa trong năm 1997 và 1998 và khẳng định phương pháp tính của Ban Hội thẩm vi phạm điều 1(a)(ii) và phụ lục 3 của Hiệp định AoA.

Kết luận của Ban Hội thẩm dựa trên những tính toán như sau: Tổng giá trị hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa của Hàn Quốc năm 1997 và 1998 vượt quá mức tổi thiểu được phép vi phạm điều 6 của Hiệp định AoA. Hàn Quốc không nêu hỗ trợ cho ngành công nghiệp thịt bò nội địa vào AMS vi phạm điều 7.2(a) của Hiệp định AoA. Tổng giá trị hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa của Hàn Quốc năm 1997 và 1998 vượt mức cam kết vi phạm điều 3.2 của Hiệp định AoA. Với việc soát những kết luận thiếu thực tế của Ban Hội thẩm,

Ban Phúc thẩm không thể đưa ra kết luận về: Liệu tổng giá trị hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa của Hàn Quốc năm 1997 và 1998 vượt quá mức tổi thiểu được phép vi phạm điều 6 của Hiệp định AoA không. Liệu Hàn Quốc không nêu hỗ trợ cho ngành công nghiệp thịt bò nội địa vào AMS vi phạm điều 7.2(a) của Hiệp định AoA không. Tổng giá trị hỗ trợ cho ngành công nghiệp nội địa của Hàn Quốc năm 1997 và 1998 vượt mức cam kết vi phạm điều 3.2 của Hiệp định AoA không. Tại cuộc họp ngày 10/01/2001, DSB đã thông qua báo cáo của Ban Phúc thẩm và báo cáo của Ban Hội thẩm được Ban Phúc thẩm sửa đổi. Tình hình thực thi các báo cáo được thông qua Tại cuộc họp ngày 02/02/2001, Hàn Quốc thông báo đã hoàn thành một số điểm trong khuyến nghị của DSB và cần một khoảng thời gian hợp lý để hoàn tất các vấn đề còn lại. Ngày 19/04/2001, các bên thống nhất khoảng thời gian hợp lý cho Hàn Quốc là 8 tháng (ngày kết thúc là 10/09/2001). Tại cuộc họp ngày 25/09/2001, Hàn Quốc thông báo đã hoàn tất toàn bộ khuyến nghị của DSB trước ngày 10/09/2001. Hoa Kỳ cho hay sẽ tiếp tục làm việc với Hàn Quốc về vấn đề này nhằm đảm bảo chắc chắn rằng thịt bò Hoa Kỳ được tiếp cận đầy đủ với thị trường Hàn Quốc.

2.2.5. Mỹ – Cá ngừ DS381

Vấn đề tranh chấp bắt nguồn từ vụ kiện nổi tiếng trong lịch sử tranh chấp của GATT – vụ Hoa Kỳ – hạn chế nhập khẩu cá ngừ (hay còn gọi là vụ cá ngừ – cá heo) năm 1991. Trong vụ việc này, Mexico khiếu nại Hoa Kỳ ra hội đồng GATT do Hoa Kỳ đã áp dụng lênh cấm nhập khẩu cá ngừ từ Mexico thông qua Đạo luật Bảo vệ sinh vật biển có vú (Marrine Mammal Protection Act) vì lý do các tàu cá Mexico đánh bắt bằng kỹ thuật quây lưới gây tác động tiêu cực tới sự sống của cá heo.

Cơ sở pháp lý của vụ tranh chấp xoay quanh việc áp dụng ngoại lệ quy định tại Điều XX GATT. Đồng thời, vụ tranh chấp này cũng liên quan đến yêu cầu dán nhãn “An toàn cho cá heo” (Dolphin-safe) của Hoa Kỳ trên các sản phẩm cá ngừ theo quy định của Đạo luật Thông tin cho người tiêu dùng về bảo vệ cá heo (Dolphin Protection Consumer Information Act-DPCIA). Hoa Kỳ giải thích rằng DPCIA được áp dụng nhằm ngăn chặn tỷ lệ tử vong của cá heo trong vùng biển nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương, gần bờ biển Mexico, nơi cá ngừ thường sống liên kết với cá heo và các thuyền cá của Mexico đánh bắt cá ngừ bằng cách quây lưới tất cả đàn cá trong khu vực, qua đó bắt luôn cả cá heo và làm chúng chết. DPCIA không cho phép dán nhãn “an toàn cho cá heo” nếu cá ngừ này được đánh bắt bằng hình thức quây lưới trong vùng biển Thái Bình Dương. Vụ việc này nhận được đông đảo sự quan tâm của cộng đồng quốc tế vì nếu biện pháp của Hoa Kỳ được chấp nhận sẽ dẫn đến một tiền lệ là bất kỳ quốc gia nào cũng có thể hạn chế hàng nhập khẩu từ quốc gia khác nếu quốc gia xuất khẩu có sự khác biệt về chính sách môi trường, bảo vệ sức khỏe của nước mình. Việc một quốc gia áp đặt luật quốc nội lên quốc gia khác sẽ dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến tính minh bạch và dễ dự đoán của hệ thống thương mại đa phương.

Phán quyết (Vụ Cá Ngừ I): Ban hội thẩm GATT lên án các biện pháp thương mại của Hoa Kỳ đối với việc cấm nhập khẩu cá ngừ xuất xứ Mexico, vì nó mang tính phân biệt đối xử và vi phạm quy định của Điều III (nguyên tắc NT) và Điều XI GATT (triệt tiêu chung các hạn chế định lượng). Tuy nhiên Ban hội thẩm đã không ban hành quyết định cuối cùng giải quyết tranh chấp vì Mexico đã rút đơn kiện và giải quyết vấn đề tranh chấp thông qua đàm phán song phương với Hoa Kỳ.

Diễn biến tiếp theo dẫn đến vụ kiện Hoa Kỳ – Cá ngừ II: Năm 1999 Mexico và Hoa Kỳ ký hiệp định về chương trình bảo tồn cá heo quốc tế (Agreement on the International Dolphin Conservation Program – AIDCP) nhằm bảo vệ cá heo ở vùng biển Đông Thái Bình Dương và hướng dẫn dán nhãn với các sản phẩm cá ngừ đánh bắt ở vùng này. Các yêu cầu dán nhãn của AIDCP không nghiêm ngặt bằng tiêu chuẩn của DPCIA (vì chỉ quy định “không tác động tiêu cực đáng kể” là được dán nhãn). Tuy nhiên, từ năm 2009, Hoa Kỳ không áp dụng quy định dán nhãn nêu tại AIDCP mà vẫn áp dụng quy định tại DPCIA. Các doanh nghiệp Hoa Kỳ chuyển sang mua các sản phẩm cá ngừ có nhãn “an toàn cho cá heo” dẫn đến ngăn cản khả năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm cá ngừ Mexico.Mexico khởi kiện Hoa Kỳ lên WTO về các vấn đề:  Nội dung của DPCIA và việc áp dụng quy định của DPCIA trong quy trình dán nhãn.

Đối với vụ việc này, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã có cách tiếp cận vấn đề khác hơn so với một số vụ kiện khác. Mexico khiếu nại Hoa Kỳ đã có sự phân biệt đối xử với Mexico theo quy định tại Điều I, Điều III GATT về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Thông thường cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO sẽ căn cứ các quy định về ngoại lệ chung tại Điều XX GATT. Tuy nhiên trong vụ kiện này cơ quan giải quyết tranh chấp đã tập trung phân tích vấn đề tranh chấp trên cơ sở quy định của Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với Thương mại (Hiệp định TBT). Điều này có thể giải thích là vì Hiệp định TBT là hiệp định đa biên trực tiếp điều chỉnh các biện pháp thương mại được coi là “quy định kỹ thuật” có ảnh hưởng hạn chế thương mại. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xem xét 04 vấn đề:

  1. Các biện pháp của Hoa Kỳ có thuộc phạm vi điều chỉnh của TBT?
  2. Các biện pháp này có tạo nên sự phân biệt đối xử không?
  3. Các biện pháp này có hạn chế hơn mức cần thiết không?
  4. Việc từ bỏ áp dụng AIDCP để áp dụng DPCIA có bất hợp lý không?

Đối với vấn đề có sự phân biệt đối xử trong quy định dán nhãn mặt hàng cá ngừ của Hoa Kỳ có bị xem là phân biệt đối xử không, Cơ quan giải quyết tranh chấp đã cho rằng: Cá ngừ Mexico và cá ngừ Hoa Kỳ được xem là sản phẩm tương tự. Ban hội thẩm nhận định việc quy định dán nhãn của Hoa Kỳ không dẫn tới việc Mexico bị phân biệt đối xử vì Hoa Kỳ áp dụng biện pháp này cho tất cả các quốc gia khác chứ không chỉ Mexico bị áp dụng. Do đó, Hoa Kỳ được áp dụng ngoại lệ chung về bảo vệ sức khỏe và không vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử. Cơ quan phúc thẩm bác lập luận của Ban hội thẩm và cho rằng quy định dán nhãn của Hoa Kỳ đã áp dụng quy định dán nhãn rất khắt khe với cá ngừ đánh bắt tại vùng biển Đông Thái Bình Dương nhưng rất lỏng lẻo với cá ngừ tại các khu vực khác. Hoa Kỳ không chứng minh được việc áp dụng các biện pháp này là công bằng cho tất cả các sản phẩm cá ngừ đến từ mọi quốc gia, do đó đã tạo nên sự phân biệt đối xử với cá ngừ Mexico.

Như vậy, có thể thấy, với việc áp dụng quy định của Hiệp định TBT cũng như ngoại lệ chung tại Điều XX GATT, Hoa Kỳ đã không thỏa mãn các trường hợp được hưởng ngoại lệ cũng như không thỏa mãn yêu cầu nêu tại lời mở đầu Điều XX GATT “không được theo cách tạo ra công cụ phân biệt đối xử độc đoán hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau, hay tạo ra một sự hạn chế trá hình với thương mại quốc tế.”

Kết quả là Mexico thắng kiện. Thời hạn Hoa Kỳ thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB sẽ là 13 tháng.Theo đó, thời hạn hợp lý hết hạn vào 13/7/2013.

Xem Thêm ==>  99+ chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật 

Còn nhiều vụ việc khác như vụ Mỹ đã ban hành luật yêu cầu một số loại xăng nhất định phải cháy sạch hơn, nhằm giảm khí thải của xe cộ và Mỹ viện dẫn Điều XX (b) GATT. Cơ quan phúc thẩm cho rằng Mỹ đã viện dẫn đúng khi nhận định sự ô nhiễm không khí là mối nguy hại cho sức khoẻ con người, động vật và thực vật. Và bởi vì một nửa sự ô nhiễm trên được gây ra bởi khí thải xe cơ giới, chính vì thế biện pháp cắt giảm khí thải là thuộc phạm vi của Điều XX (b). Mặc dù vậy, Cơ quan phúc thẩm cho rằng Mỹ đã không tìm được cách để hợp tác với các bên khiếu kiện để đưa ra sự đối xử bình đẳng cho các nhà sản xuất dầu ở nước ngoài; thêm vào đó, Mỹ đã không giải thích một các hợp lý các chi phí của biện pháp trên đối với các nhà sản xuất nước ngoài. Ngay cả xăng dầu nội địa của Mỹ cũng không đáp ứng được tiêu chuẩn của biện pháp trên. Chính vì thế, biện pháp này của mỹ đã gây ra “unjustifiable discrimination” hoặc “disguised restriction on international trade”.

2.3. Đánh giá chung về thực trạng vận dụng các ngoại lệ chung của GATT 1994

Quá trình vận dụng các quy định về ngoại lệ chung của GATT 1994 đã đạt được những kết quả như sau:

* Xây dựng và hoàn thiện rõ hơn hệ thống pháp luật về ngoại lệ chung của GATT 1994 cũng như áp dụng có hiệu quả  trong thực tiễn trên các quốc gia trong những năm vừa qua. Những văn bản điều chỉnh ngoại lệ chung của GATT 1994 và các quy định của các doanh nghiệp cho các hoạt động áp dụng ngoại lệ chung của GATT 1994. Việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật dựa trên nền tảng là việc làm cần thiết. Đây thực sự là sự cố gắng lớn lao của các cơ quan, đơn vị trong quá trình áp dụng những quy định về ngoại lệ chung của GATT 1994 cũng như các cấp, ban ngành trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm trở lại đây. .

* Đối với cơ chế quản lý và thực thi pháp luật về ngoại lệ chung của GATT 1994. Cùng với sự ra đời và áp dụng vào thực tiễn pháp luật về ngoại lệ chung của GATT 1994 thì cùng với đó đã hình thành các cơ quan NN về quản lý và thực thi pháp luật về lĩnh vực này. Sự ra đời của các cơ quan chuyên trách nói trên đã góp phần quan trọng trong việc đưa các văn bản pháp luật về ngoại lệ chung của GATT 1994 áp dụng vào hoàn cảnh thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian qua. Đồng thời, nhằm kết nối các thông tin của cơ quan NN với cá nhân, tổ chức để có sự thông tin hai chiều thì Sở tài nguyên môi trường đã xây dựng hệ thống cổng thông tin điện tử, trong đó đã có mục rõ ràng về các quyết định về ngoại lệ chung của GATT 1994.

* Ngoài ra, trong thực tế thì các tranh chấp về WTO đã áp dụng các quy định về ngoại lệ chung để đáp ứng với hoạt động áp dụng trong thực tế. Bên cạnh đó, các quy định về ngoại lệ của GATT 1994 là nền tảng quan trọng cho quá trình thực thi trong thực tế. Bên cạnh đó, những buổi tọa đàm về pháp luật ngoại lệ GATT 1994 nói chung. Qua đó, trang bị cho các chủ thể những kiến thức cần thiết về thông tin về pháp luật có liên quan

 


Trên đây là mẫu Các ngoại lệ chung của Gatt 1994 vào giải quyết tranh chấp trong WTO được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo