Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình
Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149
Đề cương báo cáo thực tập: NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Lý do chọn đề tài nghiên cứu:
Gia đình luôn là cái nôi hình thành và nuôi dưỡng nhân cách của mỗi con người. Những gia đình tốt đẹp sẽ xây dựng được một xã hội tiến bộ văn minh, một xã hội tiến bộ văn minh là cơ sở để xây dựng một gia đình tốt đẹp. Để xây dựng được một gia đình tốt đẹp trước tiên chúng ta phải hiểu gia đình là gì? Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Khởi nguồn của quan hệ gia đình đó chính là quan hệ hôn nhân, là việc kết hôn giữa người nam và người nữ theo những điều kiện mà pháp luật quy định. Như vậy, chúng ta thấy một cuộc hôn nhân tốt đẹp sẽ là nền tảng để xây dựng một gia đình và một xã hội tốt đẹp.
Bên cạnh những truyền thống tốt đẹp, trong quan hệ hôn nhân vẫn tồn tại được tôn trọng và phát huy. Thì mặt trái của xã hội đã tạo nên một thực trạng đáng lo ngại đó là vấn đề nam nữ sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn ngày càng được phổ biến. hiện tượng này phát sinh và tồn tại chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố như là ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, của lối sống phương tây, của trình độ dân trí và ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân.
Trên thực tế việc “Kết hôn” không đăng ký này sẽ làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp sau một thời gian chung sống như khi có con chung, có tài sản chung thì giữa họ nảy sinh mâu thuẫn và xảy ra tranh chấp, hay tranh chấp khi một bên lại đăng ký kết hôn với người khác. Thực trạng này kéo theo những hậu quả mang tính tiêu cực không chỉ về mặt đạo đức mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Trước thực trạng đăng ký kết hôn cũng như tác hại của các vấn đề phát sinh khi “Kết hôn” không đăng ký đối với xã hội. Tôi chọn đề tài “Nguyên cứu quy định pháp luật trong lĩnh vực Đăng ký kết hôn và thực tiễn tại Ủy ban nhân dân Phường 11, quận Bình Thạnh” làm đề tài báo cáo thực tập của mình.
Mục tiêu nghiên cứu:
– Tìm hiểu những quy định của pháp luật về vấn đề đăng ký kết hôn, nghiên cứu thực tiễn vấn đề đăng ký kết hôn tại Phường 11 quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
– Qua đó tìm ra được những bất cập, vướng mắc trong việc đăng ký kết hôn. Từ đó tìm ra được nguyên nhân, giải pháp khắc phục những hạn chế đó để công tác đăng ký kết hôn ngày càng tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi dể dàng hơn cho nhân dân đến đăng ký kết hôn mà vẩn đúng quy trình, thủ tục, không vi phạm pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vị nghiên cứu là vấn đề đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 11 quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh. Qua việc nghiên cứu thực trạng tình hình kết hôn tại địa phương chúng ta có thể tìm ra được những ưu điểm, những thế manh để phát huy và nhận ra được những mặt hạn chế, yếu kém để khắc phục nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đăng ký kết hôn tại địa phương nói riêng và cả nước nói chung
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề đăng ký kết hôn dựa theo phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp lý luận và thực tiễn.
Lý luận dự vào Luật hôn nhân gia đình 2014; Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch; Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hộ tịch và nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch.
Thực tiễn là tình hình đăng ký kết hôn tại Phường 11 quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết cấu đề tài báo cáo thực tập:
Đề tài được chi làm 3 phần:
Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Kế cấu đề tài
Chương 1: Tổng quan về về đăng ký kết hôn
1.1.Khái niệm chung về kết hôn
1.1.1.Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn
1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật
1.1.3.Khái niệm chung sống như vợ chồng và không công nhận là vợ chồng
1.2. Ý nghĩa của kết hôn
1.2.1.Ý nghĩa về mặt pháp lý
1.2.2.Ý nghĩa về mặt kinh tế – xã hội
1.2.3.Ý nghĩa về mặt văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
Chương 2: Nội dung pháp luật Việt Nam về đăng ký kết hôn
2.1. Điều kiện kết hôn và thủ tục đăng ký kết hôn
2.1.1. Điều kiện kết hôn
2.1.2. Thủ tục đăng ký kết hôn
2.2. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật
2.2.1. Quyền yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật
2.2.2. Hậu quả của việc xử lý huỷ kết hôn trái pháp luật
2.3. Giải quyết việc kết hôn không đúng thẩm quyền và việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
2.3.1. Giải quyết việc kết hôn không đúng thẩm quyền
2.3.2. Giải quyết việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng
ký kết hôn
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 11 Quận Bình Thạnh và một số kiến nghị
2.1.Tổng quan về Ủy ban nhân dân Phường 11 Quận Bình Thạnh
2.1.1.Về địa lý hành chính và dân cư
2.1.2.Tình hình kinh tế xã hội
2.1.3.Công tác giáo dục – đào tạo
2.1.4.Công tác quản lý TTXD – Đô thị
2.1.5.Cơ cấu các thành viên UBND
2.1.6. Cơ cấu các phòng ban UBND
2.2 Thực tiển hoạt động đăng ký kết hôn tại địa bàn Phường 11 Quận Bình Thạnh
2.2.1.Những thuận lợi và khó khăn trong việc đăng ký kết hôn của địa bàn
2.2.2.Trình tự thủ tục thực hiện việc đăng ký kết hôn tại địa bàn
2.2.3.Kết quả khảo sát thực tế việc đăng ký kết hôn tại địa bàn
2.3 Đánh giá thực tiễn hoạt động đăng ký kết hôn tại địa bàn
2.3.1. Ưu điểm
2.3.2. Nhược điểm
3.3.Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với đăng ký kết hôn
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1. Khái quát về kết hôn
1.1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn
- Khái niệm kết hôn
Hiện nay khái niệm kết hôn đã được các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu luật học đưa ra, chẳng hạn: Một số giáo trình luật dưới chế độ Sài Gòn cũ đã khái quát “giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn ông và một người đàn bà theo thể thức luật định”[1] hoặc “giá thú” cũng được hiểu: “Sự trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai bên về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ”[2]. Như vậy, theo một số luật gia Sài gòn, khái niệm “giá thú” bao gồm có hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, giá thú là hành vi phối hợp vợ chồng (kết hôn); theo nghĩa thứ hai, giá thú là tình trạng của hai người đã chính thức lấy nhau làm vợ chồng và thời gian hai người ăn ở với nhau. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Kết hôn còn được hiểu là: “Sự kết hợp hai người khác giới để lập gia đình, sinh đẻ con cái, thực hiện chức năng sinh học và các chức năng khác của gia đình…”[3]
Luật HN&GĐ năm 2014 thì định nghĩa: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”[4]. Từ các khái niệm kết hôn nói trên cho thấy, mặc dù còn chứa đựng những quan điểm khác nhau, song chúng có hai điểm chung sau:
Thứ nhất, các nhà làm luật khi đưa ra khái niệm kết hôn đều xuất phát từ vị trí của kết hôn là một sự kiện thực tế mang tính xã hội: “Việc một người đàn ông và một người đàn bà cam kết sống chung với nhau với những quyền và nghĩa vụ đối với nhau cũng như đối với con cái”[5] .
Thứ hai, kết hôn qua các khái niệm này là một sự kiện pháp lý và có các đặc điểm sau:
Các bên nam nữ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn Đó là những điều kiện về độ tuổi kết hôn, về sự tự nguyện kết hôn và không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn. “Việc quy định các điều kiện kết hôn là thực sự cần thiết, đảm bảo trật tự trong gia đình, xã hội, giữ gìn thuần phong mỹ tục, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân”.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm kết hôn như sau: “Kết hôn là một sự kiện pháp lý, thể hiện việc hai bên nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo trình tự, thủ tục nhất định khi họ đáp ứng đủ các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định”.
- Khái niệm điều kiện kết hôn
“Điều kiện kết hôn là điều kiện để nhà nước công nhận việc kết hôn của hai bên nam nữ”[6] . Hay nói cách khác điều kiện kết hôn là những đòi hỏi của pháp luật đặt ra khi hai bên nam nữ kết hôn, chỉ khi các bên đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi đó thì việc kết hôn mới được coi là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Như vậy, có thể hiểu: “Điều kiện kết hôn là các tiêu chuẩn pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra thông qua các quy phạm pháp luật buộc các bên nam nữ phải đáp ứng, trên cơ sở đó việc kết hôn của họ mới được công nhận là hợp pháp”.
1.1.2. Vấn đề kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
– Một là về kết hôn trái pháp luật
“Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong các quy định tại Điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”[7]
Theo định nghĩa của Luật HN&GĐ năm 2014: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”[8]
Từ các định nghĩa trên cho thấy, việc kết hôn bị coi là trái pháp luật phải đáp ứng đủ hai điều kiện. Thứ nhất là, các bên đã đăng ký kết hôn đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và thứ hai là, một bên hoặc cả hai bên vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Đây là hai điều kiện bắt buộc để xác định việc kết hôn có bị coi là trái pháp luật hay không, nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì không được coi là kết hôn trái pháp luật. Như vậy, từ các định nghĩa trên có thể hiểu:“Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn để xác lập quan hệ vợ chồng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật nhưng có sự vi phạm một trong những điều kiện kết hôn của một bên hoặc cả hai bên nam, nữ kết hôn”.
Xem Thêm ==>Dịch vụ viết chuyên đề thực tập , điểm cao
- Hai là về hủy kết hôn trái pháp luật
Dưới góc độ pháp lý, hành vi kết hôn trái pháp luật là xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân; đi trái với lợi ích mà pháp luật quan tâm, gây ra những bất lợi cho Nhà nước nhất là trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước về hộ tịch, khai sinh…; đồng thời có ảnh hưởng xấu tới xã hội như: Vi phạm nghiêm trọng vấn đề đạo đức, nhân cách lối sống của gia đình Việt Nam; phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình… Do đó, Nhà nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông qua chế tài hủy kết hôn trái pháp luật, buộc các bên kết hôn phải tuân theo mà không phụ thuộc vào ý chí của họ. Việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị Tòa án nhân dân (TAND) xử hủy đồng nghĩa với việc giá trị pháp lý của Giấy đăng ký kết hôn sẽ không được công nhận và không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam, nữ.
Như vậy, “hủy kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Nhà nước đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn thể hiện sự không công nhận của nhà nước giữa hai bên nam nữ có quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm đăng ký kết hôn nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình”. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
1.2. Đăng ký kết hôn
1.2.1. Khái niệm
Đăng ký kết hôn là thủ tục pháp lí cần thiết để Nhà nước công nhận quan hệ hôn nhân của nam và nữ. Việc ghi nhận vào sổ ĐKKH được hiểu là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kết hôn được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn . Trước khi xác lập một quan hệ hôn nhân, các điều kiện về nội dung của việc kết hôn phải được cơ quan nhà nước kiểm tra một cách chặt chẽ thông qua các thủ tục về đăng ký kết hôn. Việc ban hành quy định về ĐKKH khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch và dân cư ở nước ta hiện nay.
Cấp giấy đăng ký kết hôn về cơ bản là hoạt động của cơ quan HCNN, là một thủ tục quan trọng nhằm công nhận một mối quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ theo quy định pháp luật Việt Nam. Theo quy định pháp luật về HN&GĐ nói chung thì chưa có một khái niệm pháp lý nào quy định về đăng ký kết hôn trong thực tế. Tuy nhiên, đa phần chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau: ĐKKH là ghi vào Sổ đăng kí kết hôn để chính thức công nhận nam nữ là vợ chồng trước pháp luật. Đăng kí kết hôn là thủ tục pháp lí cần thiết làm cơ sở để Nhà nước công nhận quan hệ hôn nhân của nam nữ. Để được đăng kí kết hôn, nam nữ phải làm tờ khai đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn. Trên cơ sở đó, cơ quan đăng kí kết hôn tiến hành xác minh, nếu các bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật thì tổ chức đăng kí kết hôn cho nam nữ, ghi việc kết hôn vào sổ đăng kí kết hôn và trao Giấy chứng nhận kết hôn cho nam nữ. Kể từ ngày đăng kí kết hôn, các bên nam nữ phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật[9]. Như vậy, có thể hiểu rằng muốn phát sinh quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đồng thời, việc đăng ký kế hôn phải tiến hành theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về HN&GĐ đã được quy định
1.2.2. Ý nghĩa của đăng ký kết hôn
1.2.2.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý
Đăng ký kết hôn là sự kiện pháp lý xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam, nữ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ vợ chồng giữa họ với nhau. Từ việc quy định các điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn… cũng như những đường lối giải quyết các vi phạm điều kiện kết hôn, đó là cách để nhà nước quản lý việc kết hôn của các cá nhân trong xã hội góp phần đảm bảo trật tự gia đình, xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục, bảo vệ được pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, là tiền đề để xây dựng gia đình thực sự đầm ấm, bền vững và hạnh phúc. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Các quy định kết hôn còn là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như: Vấn đề cấp dưỡng, vấn đề nuôi con, vấn đề ly hôn hay vấn đề giám hộ… Do đó, các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động xét xử của TAND đồng thời là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể giúp cho việc giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ được khách quan, thống nhất, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Ngoài ra, các quy định kết hôn còn là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, đối với tài sản, đối với con cái và các mối quan hệ khác trong gia đình cũng như ngoài xã hội mà Nhà nước đã thừa nhận, trao cho và đảm bảo thực hiện.
1.2.2. Ý nghĩa về mặt kinh tế – xã hội và quá trình hội nhập
- Ý nghĩa về kinh tế – xã hội
Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội theo xu hướng hội nhập toàn cầu. Cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước thì chất lượng cuộc sống của nhiều tầng lớp nhân dân mà đặc biệt tại các đô thị đã được cải thiện một cách đáng kể. Theo đó, thực trạng về thể chất cũng như tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên hiện nay phát triển rất sớm và có nhiều thay đổi dẫn đến nạn tảo hôn, tình trạng chung sống như vợ chồng, đặc biệt là vấn đề hôn nhân giữa những người cùng giới tính xảy ra khá phổ biến, gây ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, sự hội nhập quốc tế làm cho văn hóa Việt Nam có nhiều chuyển biến cả theo chiều hướng tích cực lẫn chiều hướng tiêu cực, ảnh hưởng đến lối sống, cách nghĩ và hành động của không nhỏ những cá nhân trong xã hội. Điển hình như việc suy nghĩ thoáng hơn trong lối sống làm xuất hiện những suy thoái về đạo đức, văn hóa khiến cho những mối quan hệ ngoài giá thú, quan hệ ngoại tình ngày một gia tăng. Vì vậy, việc quy định về điều kiện kết hôn cũng như những đường lối xử lý các hậu quả pháp lý phát sinh từ các quan hệ này là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thực tiễn.
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới bởi rất nhiều lợi ích mà nó tạo ra cho tất cả các nước trong đó có Việt Nam, đó là: Quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội; hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội;… Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt nước ta trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó phải kể đến: Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài nhất là văn hóa phương Tây. Bằng nhiều con đường khác nhau như tham quan, du lịch, các phương tiện thông tin đại chúng… thì văn hóa phương Tây và văn hóa các nước phát triển đã du nhập vào nước ta, đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân ta gây ra các hệ quả như: Chung sống như vợ chồng, kết hôn đồng giới hay hôn nhân vi phạm chế độ một vợ một chồng… Bên cạnh đó việc giao lưu, gặp gỡ giữa công dân Việt Nam và công dân nước ngoài nói chung trong quá trình hội nhập quốc tế cũng tạo nhiều cơ hội để họ làm quen, tìm hiểu và tiến tới kết hôn với số lượng ngày một gia tăng. Tuy nhiên, không phải bất cứ cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài nào cũng hợp pháp và bền vững. Bởi ngoài việc kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa thì vẫn còn không ít các cuộc hôn nhân giả tạo, lừa dối vì nhiều mục đích khác. Đó là hệ quả khách quan của quá trình giao lưu hội nhập quốc tế mà đất nước ta đang tham gia. Vì vậy, việc quy định các cơ chế bảo đảm thực hiện nghiêm minh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau trong xu thế hội nhập và giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thực tiễn hiện nay.
1.2.3. Ý nghĩa về mặt văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
Quan hệ HN&GĐ thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị và bị ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống, phong tục tập quán. Vì vậy, các quy định về điều kiện kết hôn đều ít nhiều chịu sự chi phối của văn hóa truyền thống và phong tục tập quán. Đất nước ta có 54 dân tộc anh em, cũng đồng nghĩa với việc mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng, phong tục tập quán riêng và là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng to lớn đến cách ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Kết hôn trước tuổi quy định (tảo hôn); việc đăng ký kết hôn không do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã thực hiện; cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên;…[10] Đó là những phong tục, tập quán cần vận động xóa bỏ để tiến tới mục tiêu hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng [11] (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Tuy nhiên, bên cạnh sự lạc hậu đó chúng ta không thể phủ nhận được những phong tục, tập quán tốt đẹp mà người xưa đã để lại. Đó là truyền thống văn hóa, đạo đức của người Việt Nam từ muôn đời nay luôn coi trọng tôn ti trật tự (có trên có dưới), vợ chồng, con cái yêu thương chăm sóc lẫn nhau, con có nghĩa vụ nghe lời, phụng dưỡng ông, bà, cha, mẹ khi về già. Trong gia đình và xã hội, các con được đối xử bình đẳng như nhau, phát huy quan hệ hôn nhân gia đình bền vững và lên án những hành vi gian dối, ngoại tình, vi phạm đạo đức, nhân cách con người. Do đó, để xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau đặc biệt là sự quan tâm chia sẻ của người vợ và người chồng.
Như vậy, các quy định về kết hôn có ý nghĩa đối với nhiều mặt của đời sống xã hội và việc đảm bảo các quy định này được thi hành trong thực tiễn sẽ góp phần bảo vệ trật tự gia đình, xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục, bảo vệ được pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về đăng ký kết hôn
2.1.1. Quy định về chủ thể đăng ký kết hôn
Chủ thể đăng ký kết hôn phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Một là, về độ tuổi kết hôn.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tuổi kết hôn là: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”[12]. Việc quy định tuổi kết hôn như trên là căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người và sự phù hợp với các quy định trong BLDS và Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) Việt Nam về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Thứ nhất, quy định tuổi kết hôn căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người.
Theo các chuyên gia y tế thì ở giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, trong cùng một độ tuổi, nữ giới bao giờ cũng phát triển sớm hơn nam giới cả về sinh lý và nhận thức. Do đó, nếu nữ giới từ đủ 18 tuổi có thể bước vào cuộc sống hôn nhân thì nam giới cũng phải từ đủ 20 tuổi mới kết hôn. Đủ 20 tuổi đối với nam là độ tuổi phát triển tương đối đầy đủ về mặt thể lực cũng như có sự trưởng thành nhất định về mặt tâm lý, có ý thức trách nhiệm làm chồng, làm cha, biết lo toan, gánh vác kinh tế và giữ vai trò làm trụ cột gia đình. Đó là yếu tố cần thiết và đặc biệt quan trọng để đảm bảo cho việc xây dựng một cuộc sống gia đình sau khi kết hôn được ổn định, ấm no và hạnh phúc. Chính vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định độ tuổi kết hôn là đủ 20 tuổi trở lên đối với nam và đủ 18 tuổi trở lên đối với nữ.
Thứ hai, về sự phù hợp với BLDS và BLTTDS Việt Nam. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Việc quy định độ tuổi kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 đã thay đổi so với Luật HN&GĐ năm 1959, 1986 và 2000 nhằm thống nhất với quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005 và quy định về năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự trong BLTTDS năm 2004. Bởi thực tế cho thấy, nếu theo cách tính tuổi kết hôn trong các Luật HN&GĐ trước đó: “Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” có nghĩa, nam đã bước sang tuổi 20 (19 tuổi cộng 1 ngày) và nữ đã bước sang tuổi 18 (17 tuổi cộng 1 ngày) thì được phép kết hôn. Như vậy, người nữ giới sẽ đương nhiên là chủ thể của quan hệ HN&GĐ, họ sẽ được cấp Giấy chứng nhận kết hôn và chung sống thành vợ chồng cũng như có đầy đủ năng lực hành vi và các quyền, nghĩa vụ của một người vợ; họ có quyền sinh con đẻ cái, có quyền có tài sản, đứng tên sở hữu, sử dụng tài sản, được quyền tham gia các giao dịch dân sự… Tuy nhiên, trên thực tế họ lại không có đầy đủ các quyền nói trên, bởi BLDS năm 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”[13] mà người thành niên mới là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Trong trường hợp này, người vợ là người chưa thành niên nên chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và cũng theo Bộ luật này: “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi”[14] Có nghĩa, khi làm vợ họ sẽ không thể tự mình tham gia xác lập các giao dịch dân sự lớn, chẳng hạn mua bán nhà đất, xe cộ, tàu thuyền…; vay, thuê, mượn tài sản; là chủ thể các hoạt động đầu tư, kinh doanh… mà cần phải có người đại diện theo pháp luật (như cha, mẹ hoặc người giám hộ) thực hiện. Do vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã sửa đổi quy định về độ tuổi kết hôn nhằm giải quyết sự bất cập nói trên giúp cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất trong cuộc sống.
Hai là, sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn
Theo quy định Luật HN&GĐ hiện hành thì “việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”[15]. Sự tự nguyện trong việc kết hôn của hai bên nam, nữ thể hiện ở các mặt sau:
Về mặt ý chí chủ quan thì tự nguyện kết hôn là việc hai bên nam nữ xuất phát từ tình yêu chân chính giữa họ, mong muốn thành vợ chồng của nhau, được gắn bó, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người và cùng nhau xây dựng gia đình mà không nhằm các mục đích giả tạo khác như Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Sự luyến ái qua lại giữa đôi bên phải là lý do cao hơn hết thảy trong việc kết hôn”
Về hành vi khách quan,“Việc đăng ký kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch”[16] Và hai bên nam, nữ phải “cùng có mặt khi đăng ký kết hôn”, “cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn”[17] sau khi bày tỏ ý chí tự nguyện kết hôn trước cán bộ tư pháp – hộ tịch trong buổi đăng ký kết hôn nhằm đảm bảo cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm của mình, khẳng định mục đích xây dựng gia đình và chung sống lâu dài của họ. Về nguyên tắc không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng mà pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới ghi nhận để đảm bảo giá trị đích thực của hôn nhân bởi cuộc sống gia đình chỉ có hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hòa hợp và tự nguyện của hai bên nam nữ.
Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật
Như vậy, ý chí tự nguyện của các bên nam nữ là điều kiện cần thiết quyết định tính hợp pháp của hôn nhân nhưng việc đánh giá sự tự nguyện không chỉ căn cứ vào ý chí thực sự của nam, nữ dựa trên tình yêu chân thành giữa họ mà còn phải dựa trên cơ sở pháp lý là mục đích của việc kết hôn, là mong muốn của những người kết hôn đạt tới. Mục đích đó không có gì khác là để được cùng nhau chung sống và xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận và bền vững. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về sự tự nguyện của hai bên nam, nữ khi kết hôn là nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân phụ thuộc vào cha mẹ trong gia đình phong kiến và xây dựng hôn nhân gia đình xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng và vợ chồng bình đẳng.
Ba là, không bị mất năng lực hành vi dân sự (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Về mặt kỹ thuật lập pháp, theo các Luật HN&GĐ trước đây, quy định về điều kiện kết hôn: Không bị mất năng lực hành vi dân sự được đặt chung trong một điều bao gồm các trường hợp cấm kết hôn. Có nghĩa, quy định này thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn. Tuy nhiên, xét thấy việc kết hôn phải dựa trên sự tự nguyện hoàn toàn của hai bên nam, nữ nhằm đảm bảo cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm của mình mà với những người bị mất năng lực hành vi dân sự, họ không thể hiện được sự tự nguyện của họ trongviệc kết hôn thì chắc chắn họ không thỏa mãn điều kiện kết hôn. Chính vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã tách quy định này ra khỏi các trường hợp cấm kết hôn và đưa vào một điểm riêng trong phần điều kiện kết hôn nhằm nhấn mạnh sự cần thiết, quan trọng của nó. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết buộc các bên nam nữ phải thỏa mãn khi kết hôn cũng như là yếu tố cơ bản để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định việc đăng ký kết hôn cho các bên. Về bản chất, quy định của hai Luật trên đều giống với Luật HN&GĐ năm 2014 tuy nhiên Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014 có phát triển hơn trong việc thay đổi về mặt thuật ngữ, thể hiện tính khái quát, bao hàm hơn và hoàn toàn phù hợp với BLDS năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Có thể thấy, quy định này là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết bởi lẽ, đối với những người bị mất năng lực hành vi dân sự, việc họ thể hiện ý chí tự nguyện – một nguyên tắc quan trọng của Luật HN&GĐ năm 2014 là không thể xác định được.
Bốn là, Điều kiện kết hôn không cùng giới tính
Về vấn đề đồng giới hiện nay có rất nhiều tuyên bố của các tổ chức quốc tế cùng với các kết quả nghiên cứu đều chỉ ra rằng đồng tính, song tính và chuyển giới không phải là bệnh, không thể lây lan và người đồng tính là những con người tự nhiên của xã hội. Tuy nhiên, theo quan điểm truyền thống cũng như tập quán gia đình của người Việt Nam từ muôn đời nay thì hôn nhân chính là để xây dựng gia đình và gia đình phải thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của nó trong đó có chức năng sinh đẻ nhằm duy trì và phát triển nòi giống mà trên thực tế nếu hai người cùng giới tính kết hôn sẽ không có khả năng sinh đẻ con chung. “Do vậy, chỉ những người không cùng giới tính (nghĩa là một nam, một nữ) kết hôn mới có thể cùng nhau thực hiện được chức năng này. Xuất phát từ quan điểm trên, pháp luật Việt Nam hiện hành quy định điều kiện kết hôn phải là những người không cùng giới tính. Quy định này nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân truyền thống, bảo đảm sự yên ấm, hạnh phúc của mỗi gia đình và bảo đảm cho tương lai của đất nước”.
Năm là, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Chỉ khi hai bên nam, nữ tuân thủ đầy đủ các điều kiện về độ tuổi kết hôn, về tự nguyện kết hôn, không bị mất năng lực hành vi dân sự, không cùng giới tính và không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn tại Khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GĐ năm 2014 thì việc kết hôn đó mới có giá trị pháp lý và được Nhà nước bảo vệ. Luật HN&GĐ năm 1959, 1986, 2000 và 2014 đều có điều khoản quy định về các trường hợp cấm kết hôn bởi đây là vấn đề hết sức quan trọng trong cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế vẫn có những trường hợp người đã có vợ hoặc có chồng nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; hoặc tồn tại hôn nhân giữa hai bên nam, nữ có quan hệ nuôi dưỡng hoặc cùng dòng máu về trực hệ… Và hậu quả đều đem lại sự đau khổ, bất hạnh cho các gia đình, kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội và không phù hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Do vậy, trên cơ sở kết thừa và phát triển các Luật HN&GĐ trước đó, Luật HN&GĐ hiện hành đã quy định rất cụ thể các trường hợp cấm kết hôn đồng thời, có bổ sung thêm một số trường hợp mới cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội hiện nay. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
2.1.2. Quy định về thủ tục đăng ký kết hôn
Theo Luật HN&GĐ hiện hành quy định:
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn[18]
Như vậy, đăng ký kết hôn là thủ tục kết hôn duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân do cơ quan Nhà nước quy định buộc các bên nam, nữ phải tuân theo. Muốn trở thành vợ chồng, nam nữ phải xin đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ khi nào cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn cho họ, ghi vào Sổ kết hôn và trao Giấy chứng nhận kết hôn thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng.
Thẩm quyền đăng ký kết hôn
Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Hộ tịch năm 2014 quy định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn như sau:
Đối với việc kết hôn của công dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam thì thẩm quyền đăng ký kết hôn là: UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn. Nếu việc kết hôn tiến hành tại UBND xã nhưng không phải là nơi mà một trong hai bên kết hôn thường trú thì việc đăng ký kết hôn đó là không đúng thẩm quyền và không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài thì thẩm quyền đăng ký kết hôn thuộc về UBND cấp tỉnh theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, Luật Hộ tịch năm 2014 thì thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chỉ thuộc về UBND cấp huyện mà không phân chia cho các cơ quan nhà nước khác như trên nữa . Do đó, đến thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2016 khi Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thì quy định trên của Nghị định số 126/2014 về thẩm quyền đăng ký kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ thay đổi để phù hợp với Luật Hộ tịch mới ban hành.
Như vậy, về nguyên tắc việc kết hôn của nam, nữ phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp nam, nữ đăng ký kết hôn nhưng tiến hành tại cơ quan nhà nước không có thẩm quyền (còn gọi là đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền) thì việc đăng ký kết hôn đó không có giá trị pháp lý và giữa hai người kết hôn không phát sinh quan hệ vợ chồng.
Hồ sơ đăng ký kết hôn
Các bên nam, nữ khi kết hôn phải có hồ sơ đăng ký kết hôn được lập thành 01 bộ gồm có các giấy tờ sau đây:
Tờ khai đăng ký kết hôn (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân;
Xác nhận tình trạng hôn nhân trong Tờ khai (theo mẫu quy định) hoặc Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân;
Trong trường hợp một người cư trú tại xã này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã khác, thì phải có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó; (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Đối với những người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau (kể cả thời gian cư trú ở nước ngoài), mà UBND xã, “nơi xác nhận tình trạng hôn nhân không rõ về tình trạng hôn nhân của họ ở những nơi đó, thì yêu cầu đương sự viết bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình trong thời gian trước khi về cư trú tại địa phương và chịu trách nhiệm về việc cam đoan”.
Đối với trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài, cần có giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.
Bản sao sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú.
Nghi thức kết hôn
“Pháp luật Việt Nam quy định về nghi thức kết hôn như sau: “Hai bên nam, nữ nộp Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn”. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn, công chức tư pháp – hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp – hộ tịch báo cáo với Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức trao giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ. Có thể thấy, sự “cùng nhau” của hai bên nam, nữ trong tất cả các nghi thức kết hôn được pháp luật đặc biệt nhấn mạnh, thể hiện sự đồng thuận, tự nguyện gắn kết giữa hai người”[19]. Đó là những khởi đầu tốt đẹp cho một cuộc sống mới mà hai người sẽ phải cùng gắn bó, chung tay và xây dựng gia đình. Kể từ thời điểm này, hai bên nam, nữ mới chính thức phát sinh quan hệ vợ chồng. Như vậy, mọi nghi thức kết hôn khác không theo các quy định pháp luật về thủ tục đăng ký kết hôn thì đều không có giá trị pháp lý..
2.1.3. Quy định về việc kết hôn trái pháp luật
Theo quy định của Luật HN&GĐ, “tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo luật định và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ”[20] Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Và để quy định này đi vào cuộc sống, Luật giao cho TAND tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết nội dung này. Như vậy, trong thời gian sắp tới sẽ có văn bản hướng dẫn chi tiết thực hiện nội dung này.
Quyền yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Nhà nước không thừa nhận những trường hợp nam, nữ kết hôn mà không tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn (hay còn gọi là kết hôn trái pháp luật). Vì vậy, việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị TAND xử hủy khi có yêu cầu. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định những người sau đây có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật.
Đối với các cá nhân đó là: “Người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối kết hôn; vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật”[21] . Đây là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ trực tiếp bị xâm phạm do việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, pháp luật quy định họ có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật.
Đối với các cơ quan, tổ chức đó là:
Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình trong phạm vi toàn quốc; “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình; Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình tại địa phương”
Hội Liên hiệp Phụ nữ. Ngoài ra còn có các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Pháp luật quy định cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của các thành viên của tổ chức mình, đồng thời nhằm bảo đảm việc xét xử đối với việc kết hôn trái pháp luật vẫn được tiến hành khi các cá nhân không yêu cầu. Ví dụ: Người bị cưỡng ép kết hôn không dám khởi kiện vì sợ bị đánh đập, ngược đãi; người không biết là họ có quyền yêu cầu nên đã không yêu cầu…
TAND sau khi nhận được đơn khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật phải tiến hành điều tra, xác minh làm rõ hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn của nam, nữ và xem xét mối quan hệ tình cảm giữa họ. Trên cơ sở đó, Tòa án tiến hành mở phiên tòa giải quyết việc dân sự và đưa ra quyết định mà không được hòa giải. Khi Tòa án xét xử, các cá nhân, cơ quan, tổ chức đã yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật phải có mặt tại phiên tòa để cung cấp những chứng cứ cần thiết giúp Tòa án làm sáng tỏ vụ việc và có quyết định chính xác.
Hậu quả của việc xử lý huỷ kết hôn trái pháp luật
Khi TAND hủy việc kết hôn trái pháp luật, cần giải quyết các vấn đề sau:
Quan hệ nhân thân: “Nhà nước không thừa nhận hai người kết hôn trái pháp luật là vợ chồng. Do đó, giữa họ chưa từng phát sinh quan hệ vợ chồng. Việc họ sống chung như vợ chồng là trái pháp luật”. Vì vậy, “Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng”[22] Kể từ ngày quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật của Tòa án có hiệu lực pháp luật, hai người phải chấm dứt cuộc sống chung trái pháp luật đó.
Quan hệ giữa cha mẹ và con: “Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được pháp luật quy định không phụ thuộc vào hôn nhân của cha, mẹ có hợp pháp hay không hợp pháp, còn tồn tại hay chấm dứt”. Vì vậy, hai người kết hôn trái pháp luật tuy không phải là vợ chồng nhưng vẫn là cha và mẹ của con chung. Khi Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn[23]. “Do đó, quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Ngoài ra, TAND phải căn cứ vào điều kiện thực tế của các bên đương sự và căn cứ vào các quy định pháp luật để giải quyết cho hợp tình, hợp lý”[24]. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Xem Thêm ==> Phân loại thừa kế theo quy định pháp luật Việt Nam
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng: Luật HN&GĐ quy định như sau:
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của BLDS và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
“Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”[25]
2.1.4. Quy định về việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền
Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Hộ tịch năm 2014 quy định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn như sau:
Đối với việc kết hôn của công dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam thì thẩm quyền đăng ký kết hôn là: UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn. Nếu việc kết hôn tiến hành tại UBND xã nhưng không phải là nơi mà một trong hai bên kết hôn thường trú thì việc đăng ký kết hôn đó là không đúng thẩm quyền và không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài thì thẩm quyền đăng ký kếthôn thuộc về UBND cấp tỉnh theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, Luật Hộ tịch năm 2014 thì thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chỉ thuộc về UBND cấp huyện mà không phân chia cho các cơ quan nhà nước khác như trên nữa Do đó, đến thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2016 khi Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thì quy định trên của Nghị định số 126/2014 về thẩm quyền đăng ký kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ thay đổi để phù hợp với Luật Hộ tịch mới ban hành.
“Nếu việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước”[26] Đây cũng là một điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000 bởi, Luật HN&GĐ năm 2000 không có quy định cụ thể về trường hợp kết hôn không đúng thẩm quyền mà chỉ quy định chung về việc hủy kết hôn trái pháp luật là do Tòa án xem xét và ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật, có nghĩa thẩm quyền này chỉ thuộc về TAND Còn đối với Luật HN&GĐ năm 2014 thì ngoài việc tách rời quy định về xử lý việc kết hôn không đúng thẩm quyền ra một điều riêng còn quy định thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn không đúng pháp luật cho UBND cấp xã. Theo Luật Hộ tịch thì UBND cấp xã có quyền thu hồi và hủy bỏ Giấy chứng nhận kết hôn đối với việc kết hôn của công dân Việt Nam với nhau và UBND cấp huyện có quyền thu hồi và hủy bỏ Giấy chứng nhận kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài. Ngoài ra Luật HN&GĐ năm 2014 còn yêu cầu hai bên thực hiện việc đăng ký kết hôn lại cho đúng quy định của pháp luật và quan hệ hôn nhân của họ sẽ chính thức được pháp luật thừa nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn trước đó. “Đây thực sự là một quy định mở của luật pháp nhằm khuyến khích người dân đăng ký kết hôn đúng cơ quan có thẩm quyền và đảm bảo quyền cũng như lợi ích hợp pháp của họ từ thời điểm họ chung sống với nhau trước đó, coi như việc đăng ký kết hôn đúng thẩm quyền chỉ là việc hợp thức hóa việc kết hôn của họ mà thôi”.
2.1.5. Quy định về việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Luật HN&GĐ Việt Nam quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ, chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì giữa họ không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn; trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng”[27]. Tuy nhiên, cần bàn thêm về trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn, nếu có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000. Đây là hướng dẫn chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 của Nghị quyết số 35/2000 được Quốc hội ban hành ngay sau khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực để thấy rằng pháp luật vẫn công nhận quan hệ hôn nhân thực tế được xác lập trước ngày 03/01/1987. Đồng thời, “pháp luật cũng chỉ khuyến khích họ đi đăng ký kết hôn chứ cũng không bắt buộc họ phải đi đăng ký kết hôn, nghĩa là hiện nay trong thực tế sẽ còn nhiều trường hợp nam, nữ chung sống thành vợ chồng trước 03/01/1987 mà vì lý do nào đó họ vẫn chưa đăng ký kết hôn”. Trong khi đó, liên quan đến vấn đề trên, Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà không có đề cập đến vấn đề này hoặc điều khoản chuyển tiếp thì quy định chung chung là: “Quan hệ HN&GĐ được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về HN&GĐ tại thời điểm xác lập để giải quyết”[28] và cũng không có nghị quyết hướng dẫn thi hành về trường hợp này. Vậy “số phận” của những cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân thực tế trước ngày 03/01/1987 phải chăng đã bị pháp luật “bỏ quên”? Do đó, việc phải ban hành ngay một văn bản hướng dẫn chi tiết các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 là một việc làm cần thiết nhằm làm cho pháp luật thực sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống. (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký kết hôn
Luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành sau khi ra đời với những quy định mới đã chứng tỏ nhiều điểm tích cực trong quan điểm lập pháp của các nhà làm luật nước ta góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ; bảo đảm các quyền dân sự nói chung và quyền về HN&GĐ nói riêng đồng thời thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Luật HN&GĐ năm 2014 tuy đã có hiệu lực thi hành, nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật lại phản ánh việc áp dụng chế định kết hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 nên Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi về mặt thực tiễn về kết hôn; còn có nhiều điểm chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau về vấn đề này.
Trình tự thủ tục về ĐKKH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đã đảm bảo quyền và lợi ích của công dân. Thông qua các quy định cụ thể của Luật HN&GĐ, Luật hộ tịch và Luật cư trú cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã đảm bảo cho quá trình ĐKKH trong và ngoài nước. Tuy nhiên, pháp luật về thủ tục ĐKKH vẫn còn bộc lộ một số bất cập như:
Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn của công dân hiện nay được thực hiện theo Luật HN&GĐ về ĐKKH. Theo đó, UBND cấp xã là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn cho công dân trong nước. Tuy nhiên, kiểm tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch cho thấy, vẫn còn nhiều sai sót trong quá trình giải quyết đăng ký kết hôn cho người dân, dẫn đến nhiều hệ lụy pháp lý phát sinh sau này.
Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định, khi đến đăng ký kết hôn tại UBND cấp xã- nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thì hai bên nam, nữ phải nộp tờ khai theo mẫu quy định và xuất trình chứng minh nhân dân. Trong trường hợp, một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác thì phải có xác nhận của UBND cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó. Quy định như vậy, nhưng qua kiểm tra, có nhiều hồ sơ một trong các bên nam, nữ không tiến hành xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định, hoặc có xác nhận tình trạng hôn nhân nhưng đã quá hạn 6 tháng mà UBND cấp xã vẫn giải quyết cho đăng ký kết hôn. Lẽ ra, trong trường hợp này phải yêu cầu xác nhận lại tình trạng hôn nhân, nhưng cán bộ hộ tịch cơ sở vẫn giải quyết cho đương sự đăng ký kết hôn là không đúng luật. Ngược lại, chỉ yêu cầu các bên nam, nữ xuất trình chứng minh nhân dân để đối chiếu với tờ khai đăng ký kết hôn theo thủ tục, nhưng nhiều cán bộ hộ tịch vẫn yêu cầu người dân phải photo nộp cả chứng minh nhân dân, gây phiền phức cho người dân.
Thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn, nhiều UBND cấp xã giải quyết chưa đúng quy định. Theo luật định, để UBND cấp xã giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn cho người dân là 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ các giấy tờ, thủ tục hợp lệ; nếu xác minh các vấn đề nào khác thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 5 ngày. Nhưng thực tế vẫn có nhiều hồ sơ gần 1 tháng vẫn chưa giải quyết, gây nhiều phiền hà cho người dân.
Sai sót nhiều nhất trong thủ tục giải quyết đăng ký kết hôn cho công dân là việc ký tên trong chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn và tờ khai đăng ký kết hôn. Một trong những quy định bắt buộc trong thủ tục giải quyết đăng ký kết hôn là các bên nam, nữ đều phải ký tên vào sổ đăng ký kết hôn để chứng tỏ quan hệ hôn nhân do các bên xác lập là quan hệ hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và chịu trách nhiệm về quan hệ hôn nhân do mình xác lập. Nghị định 123 quy định: khi đăng ký kết hôn hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện UBND cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện đăng ký kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Sau đó, hai bên nam, nữ ký vào Sổ và Giấy chứng nhận kết hôn; chủ tịch UBND cấp xã sẽ ký, cấp cho mỗi bên nam, nữ một bản chính giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Đây còn gọi là nghi thức đăng ký kết hôn (hay lễ đăng ký kết hôn), tuy nhiên hầu hết các UBND cấp xã không hề thực hiện nghi thức này. Nhiều trường hợp cho thấy, chỉ có một bên nam hay nữ đơn phương đến UBND cấp xã nhận Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; chỉ cần có chữ ký của một trong các bên, bên còn lại không ký vào chứng nhận kết hôn cũng được UBND cấp xã cho nhận Giấy chứng nhận kết hôn. UBND xã cho rằng, không có thời gian để tiến hành lễ đăng ký kết hôn cho người dân, chỉ cần cán bộ Tư pháp- hộ tịch tiếp nhận hồ sơ, tham mưu UBND xã ký chứng nhận kết hôn là đủ. Giải quyết kiểu “đốt cháy giai đoạn” như vậy sẽ phát sinh nhiều hệ quả pháp lý sau này, nếu một trong các bên đăng ký kết hôn không thừa nhận quan hệ hôn nhân của mình trước Tòa án- khi ly hôn, do giấy tờ đăng ký kết hôn không hợp lệ và phát sinh tranh chấp tài sản thì UBND cấp xã sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm về việc giải quyết đăng ký kết hôn không đúng luật.(Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn)
Khâu lưu trữ hồ sơ đăng ký kết hôn cũng chưa đúng quy định, nhiều cán bộ Tư pháp- hộ tịch cơ sở chưa thực hiện việc lưu trữ các thủ tục đăng ký kết hôn của người dân. Theo quy định, các giấy tờ đương sự đã nộp khi đăng ký hộ tịch phải được lưu trữ, bảo quản tại cơ quan đăng ký hộ tịch trong thời hạn 5 năm, nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch . Nhưng qua kiểm tra, phát hiện các hồ sơ đăng ký kết hôn ở nhiều xã chỉ trong một hai năm gần đây cũng không còn lưu trữ, không thể đối chiếu, xác minh khi có khiếu nại, tố cáo xảy ra. Hồ sơ đăng ký kết hôn không được lưu trữ, dẫn đến mất mát còn gây khó khăn cho công tác quản lý hộ tịch ở địa phương.
Đăng ký kết hôn cho công dân là nhiệm vụ của UBND cấp xã. Để tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền kết hôn theo quy định, UBND xã phải áp dụng đúng luật để giải quyết các thủ tục cần thiết. Có như vậy mới bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của công dân, tránh những hệ lụy pháp lý phát sinh sau này.
Đăng ký kết hôn là một trong những lĩnh vực quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta. Đông thời có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật, đáp ứng với chương trình cải cách tư pháp trong tình hình mới. Pháp luật – công cụ quản lý xã hội của nhà nước cũng phát huy tốt ý nghĩa của mình trong việc quản lý hộ tịch và ĐKKH và xử lý các hành vi vi phạm trong vấn đề này. Nhìn chung Luật hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp lý có liên quan cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối đầy đủ, hợp lý những vấn đề cần thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng để đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế, khi triển khai, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quy định quản lý hộ tịch và ĐKKH chưa thực sự được áp dụng phổ biến, nhiều vi phạm về vấn đề này đã có những tác động không nhỏ đến cộng đồng, đồng thời những ảnh hưởng của các hành vi đó mang tính chất lâu dài, nghiêm trọng và khó khắc phục về tình trạng ban đầu. Do đó, các cơ quan chức năng cần có những biện pháp hữu hiệu để thực hiện có hiệu quả những quy định của pháp luật về vấn đề này một cách chính xác các quyền lợi mà pháp luật đã trao. Từ đó, khẳng định tính tất yếu về việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực này được thực hiện một cách chặt chẽ và đầy đủ, giúp cho các cơ quan thực thi pháp luật có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt, hợp lý bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể được pháp luật quy định.
[1] Nguyễn Quang Quýnh (1968), Dân luật, Quyển 1, Bộ văn hoá giáo dục, tr.239, NXB Viện đại học Cần thơ. [2] Vũ Văn Mẫu và Lê Đình Chân (1968), Danh từ và tài liệu Dân luật và Hiến luật, tr.100, Tủ sách Đại học Sài gòn. [3] Hội đồng quốc gia (2002), Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 2, tr.476, NXB Từ điển bách khoa Hà Nội. [4] Điều 3, khoản 5, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [5] Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. [6] Từ điển giải thích từ ngữ luật học Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an Nhân dân [7] Từ điển giải thích từ ngữ luật học Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an Nhân dân [8] Điều 3, khoản 5, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (Đề tài tốt nghiệp: Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn) [9] Phạm Danh Môn (2011), Tình yêu lứa đôi trong ca dao Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh [10] Ủy ban dân tộc (2013), Những vấn đề áp dụng tập quán trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình – Một số kiến nghị [11] Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình, [12] Điều 8, Khoản 1, Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. [13] Điều 18, Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội. [14] Điều 20, Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội. [15] Điều 8, Khoản 2, Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. [16] Khoản 9, Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. [17] Khoản 2, Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội [18] Điều 9, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [19] Điều 9 và 68, 18, Khoản 1, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [20] Khoản 2 Điều 11, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [21] . Khoản 1, Điều 10, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [22] Khoản 1, Điều 12, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [23] Khoản 2, Điều 12, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [24] Điều 81,83, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [25] Điều 12, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [26] Điều 13, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [27] Điều 53, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 [28] Điều 131, Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Trên đây là mẫu chuyên đề thực tập Quy Định Pháp Luật Về Đăng Ký Kết Hôn được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149