Lý Luận Chung Về Cơ Chế Pháp Lý Bảo Hộ Người Việt Nam Ở Nước Ngoài

Rate this post

Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Lý Luận Chung Về Cơ Chế Pháp Lý Bảo Hộ Người Việt Nam Ở Nước Ngoài dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Lý Luận Chung Về Cơ Chế Pháp Lý Bảo Hộ Người Việt Nam Ở Nước Ngoài mẫu đề tài này được kham khảo từ bài khóa luận tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


 

1.1. Lý luận chung về cơ chế pháp lí bảo hộ công dân

1.1.1. Khái niệm về cơ chế pháp lý bảo hộ công dân

  • 1.1.1.1. Khái niệm người Việt Nam ở nước ngoài

Trên cơ sở nghiên cứu thì có nhiều khái niệm về người Việt Nam ở nước ngoài thường được quy định một cách thống nhất. Về cơ bản thì người Việt Nam ở nước ngoài thường được hiểu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Việc người Việt định cư ra nước ngoài đã có từ rất lâu, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, định cư ở nhiều quốc gia, khu vực. Hiện nay, số lượng người Việt định cư ở nước ngoài ngày càng nhiều và tạo nên các cộng đồng người Việt ở nước ngoài rất đa dạng và phức tạp.

Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam được hiểu tương đối thông nhất. Điều 3 khoản 3 Nghị định Số:138/2006/NĐ-CP quy định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” là người có quốc tịch Việt Nam và người gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.

Khái niệm này được khẳng định lại tại Điều 3 khoản 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.

Như vậy, theo khái niệm trên, người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm 2 loại là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.

– Công dân Việt Nam là những người có quốc tịch Việt Nam (Khoản 1 Điều 17 Hiến pháp năm 2013).

– Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài (Điều 3 khoản 4 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008).

  • 1.1.1.2. Khái niệm bảo hộ công dân theo pháp luật quốc tế

ặt ra khi cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia sở tại có hành vi trái pháp luật quốc tế, qua đó gây phương hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mình ở nước ngoài. Quốc gia mà người đó là công dân có trách nhiệm tiến hành các biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật quốc gia sở tại và pháp luật quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân mình. Đồng thời, trách nhiệm BHCD còn bao gồm các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà nhà nước dành cho công dân mình đang ở nước ngoài, kể cả trong trường hợp không có hành vi xâm hại nào tới công dân của nước này. Trong trường hợp này, sự bảo hộ bao gồm những hoạt động mang tính công vụ như cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính cho công dân; các hoạt động có tính chất trợ giúp như giúp đỡ về tài chính cho công dân khi họ gặp khó khăn, giúp đỡ công dân trong việc chuyển thông tin, bảo quản giấy tờ, tài sản…; hỏi thăm lãnh sự khi công dân bị bắt, bị giam, áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân nước mình trên cơ sở phù hợp quy định pháp luật quốc gia sở tại hoặc luật pháp quốc tế[1].

Theo Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 được kí kết trong Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế tại San Fransisco (Mỹ) ngày 26 tháng 6 năm 1945 bởi 50 nước thành viên đầu tiên, có hiệu lực từ ngày 24 tháng 10 năm 1945, sau khi được phê chuẩn bởi 5 nước thành viên sáng lập (Trung Hoa, Liên Bang Xô Viết, Pháp, Anh, Hoa Kỳ) và phần đông các nước khác mặc dù vấn đề bảo hộ công dân không được nêu trực tiếp trong Hiến chương, nhưng thông qua những điều khoản của Hiến chương này mà các nguyên tắc bảo hộ công dân được thể hiện. Những quy định kể trên là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống văn kiện quốc tế về các vấn đề có liên quan đến bảo hộ công dân. Dựa trên tinh thần và nguyên tắc của bản hiến chương này, các công ước quốc tế ra đời tạo cơ sở pháp lí cho quốc gia bảo hộ quyền và lợi ích của công dân mình trên toàn thế giới. Trong đó, hai công ước cơ bản nhất là Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao và công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự.

Đối với Công ước Viên về quan hệ ngoại giao được thông qua ngày 18/4/1961 tại Hội nghị Viên của Liên hợp quốc về Quan hệ ngoại giao và miễn trừ ngoại giao. Bắt đầu có hiệu lực ngày 24/4/1964 là công ước quan trọng nhất được các quốc gia sử dụng trong lĩnh ngoại giao của mình. Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao được quy định cụ thể tại điều 3 Công ước Viên về quan hệ ngoại giao 1961. Theo đó, cơ quan đại diện ngoại giao đại diện cho nước cử đi tại nước tiếp nhận; Bảo vệ quyền lợi của nước cử đi và của công dân nước cử đi tại nước tiếp nhận trong phạm vi cho phép của luật quốc tế…như vậy, một trong những chức năng chính của cơ quan đại diện ngoại giao là bảo vệ quyền lợi của công dân nước mình. Công ước không quy định cụ thể biện pháp mà cơ quan đại diện ngoại giao phải thực hiện để bảo hộ công dân. Theo thông lệ thì cơ quan này có thể tiến hành bảo hộ công dân nước mình bằng nhiều biện pháp nhưng phải phù hợp với pháp luật nước cử, pháp luật nước nhận cũng như pháp luật quốc tế. Cơ quan đại diện có thể giúp đỡ công dân mình khi họ gặp khó khăn, đại diện cho công dân tham gia vào quá trình tố tụng… Và đây cũng là nền tảng cơ bản để cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài thực hiện các hoạt động BHCD trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ được giao trong thực tế.

Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao (1961), các cơ quan đại diện ngoại giao một nước trên lãnh thổ của nước sở tại có thẩm quyền “bảo vệ lợi ích quốc gia và của công dân mình trong giới hạn của luật pháp quốc tế” nói chung.[2]

Từ những phân tích trên, một cách chung nhất, có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm BHCD theo pháp luật quốc tế như sau: BHCD theo pháp luật quốc tế là trách nhiệm chính trị – pháp lý của Nhà nước trong việc thúc đẩy, giúp đỡ, tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời tiến hành bảo vệ khi có sự đe doạ, cản trở hoặc xâm hại đến các quyền và lợi ích đó. Như vậy, hoạt động bảo hộ công dân có thể bao gồm các hoạt động có tính chất công vụ như cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính hoặc các hoạt động có tính giúp đỡ như trợ cấp tài chính cho công dân khi họ gặp khó khăn, phổ biến các thông tin cần thiết cho công dân nước mình tìm hiểu về nước mà họ dự định tới… vì nguyện vọng cá nhân cho đến các hoạt động có tính chất phức tạp hơn như hỏi thăm lãnh sự khi công dân bị bắt, bị giam hoặc tiến hành các hoạt động bảo vệ và đảm bảo cho công dân nước mình được hưởng những quyền lợi và lợi ích tối thiểu theo quy định của nước sở tại hoặc luật quốc tế.

  • 1.1.1.3. Khái niệm bảo hộ công dân theo pháp luật Việt Nam

Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân luôn là vấn đề trọng tâm trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Có thể nói một trong những vấn quan trọng trong mối quan hệ giữa các quốc gia hiện nay là vấn đề bảo hộ công dân. Nhà nước luôn có cơ chế luôn đảm bảo cho công dân được những lợi ích và các quyền công dân và ngược lại công dân phải thực hiện nghĩa vụ pháp lí mà pháp luật quy định. Việc thiết lập các cơ chế để thúc đẩy và hoàn thiện mối quan hệ này cũng luôn là những nội dung được quan tâm hàng đầu về cơ chế pháp lí cũng như thực tiễn cuộc sống. Một những quyền mà mọi công dân quan tâm nhất hiện nay là quyền được bảo hộ khi đang ở nước ngoài, đây là trách nhiệm của quốc gia đối với công dân của mình. Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì việc bảo hộ công dân là một trong những chức năng của nhà nước nhằm bảo hộ các công dân mang quốc tịch của mình, đồng thời đây cũng là một trong các quyền rất cơ bản và quan trọng của mỗi công dân trong và ngoài lãnh thổ của quốc gia mà mình mang quốc tịch. Đồng thời, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cũng nhấn mạnh: Việc bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài là hết sức cần thiết, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước Việt Nam đối với thế giới cũng như trong con mắt người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần khuyến khích, động viên ngày càng nhiều hơn sự đóng góp của bà con Việt kiều vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thuật ngữ “bảo hộ” (dưới góc độ là một chức năng của Nhà nước) đã được sử dụng từ rất lâu, nhưng không theo cách hiểu hiện đại, mà theo cách hiểu về một trạng thái do Nhà nước đô hộ áp đặt cho quốc gia bị đô hộ. Nghĩa “che chở, giúp đỡ, chăm lo” ở đây chỉ thuần túy mang cái nhìn bề trên từ phía Nhà nước.

Về mặt ngữ nghĩa, “bảo hộ” là thuật ngữ có gốc từ Hán Việt. “Bảo” nghĩa là giữ gìn, “hộ” nghĩa là che chở. Như vậy, “bảo hộ” nghĩa là giữ gìn, che chở. Theo Từ điển Tiếng Việt: Bảo hộ là “che chở, không để bị tổn thất[3]. Bảo hộ theo nghĩa như vậy được sử dụng trong nhiều tình huống, hoàn cảnh khác nhau. Trong pháp luật quốc tế thì bảo hộ công dân

Theo nghĩa rộng, BHCD là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài mà còn bao gồm hoạt động giúp đỡ về mọi mặt..

Theo nghĩa hẹp, BHCD được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài khi những quyền và lợi ích này bị xâm hại.. Như vậy, BHCD theo nghĩa hẹp chỉ diễn ra khi sự xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mình. Với cách tiếp cận như vậy, BHCD theo nghĩa hẹp có nội dung khá gần gũi với khái niệm bảo vệ quyền trong quan niệm hiện hành. Tuy nhiên, BHCD dù được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp cũng đều là trách nhiệm chính trị – pháp lý, mà trước hết là trách nhiệm chính trị, xuất phát từ yêu cầu về tính chính đáng của nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân được thực hiện các quyền một cách tốt nhất. Nhà nước phải có trách nhiệm với công dân, ngay cả trong các trường hợp nằm ngoài phạm vi quyền tài phán của mình, hoặc khi pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu vắng nhưng vì các nguyên tắc nhân đạo, công bằng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, mà vẫn phải thực hiện trách nhiệm. Đây là mối quan hệ giữa nhà nước và công dân của một quốc gia cụ thể, liên quan đến khía cạnh các quyền cơ bản của công dân.

1.1.2. Vai trò,mục đích, ý nghĩa của cơ chế pháp lí bảo hộ công dân ở nước ngoài

  • 1.1.2.1. Vai trò đối với cá nhân, pháp nhân và Nhà nước

Trên cơ sở những tri thức chung về quy định bảo hộ  công dân thấy vai trò của pháp luật trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thể hiện ở những điểm căn bản sau đây:

Một là, cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài là phương tiện cụ thể hóa một cách chính thống phần lớn các quyền, tự do của công dân, con người vốn được ghi nhận trong Hiến pháp, trên mọi lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội. Nhiều quyền cơ bản của công dân chỉ có thể được bảo đảm, bảo vệ khi được cụ thể hóa thành các quy phạm cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài, nhờ có các quy phạm cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài mà các quy phạm hiến pháp về quyền con người, quyền công dân được thực hiện trên thực tế. Như vậy, các quy phạm cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài là phương tiện để đưa các quy phạm hiến pháp về quyền con người, quyền công dân đi vào đời sống xã hội, nói cách khác nhờ có quy phạm cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài mà nhiều quy phạm Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân được thực hiện trên thực tế.

Hai là, cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài là phương tiện để giới hạn quyền lực của hệ thống quản lý hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cá nhân, tổ chức của công dân. Đồng thời, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài xác định giới hạn quyền lực hành chính công với công dân, đảm bảo mọi công dân Việt Nam ở nước ngoài đều được bảo vệ  và pháp luật nói chung hay cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài nói riêng cần phải tạo ra giới hạn sự can thiệp của nhà nước trong hoạt động BHCD trong thực tế. Thông qua đó mà cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài đã bảo đảm, bảo vệ quyền của con người, quyền công dân đối với các công dân Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn hiện nay.

Ba là, cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài là phương tiện để công dân có thể kiểm soát được các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Thông qua hoạt động của cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài thì người dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình để từ đó các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài để các cơ quan thay mặt nhà nước thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo quyền công dân trong trường hợp bị xâm phạm.

Bốn là, cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài là phương tiện pháp lý, bằng các phương thức, cách thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân khi bị xâm hại trong hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội. Trong thực tiễn đời sống nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân có thể bị xâm hại từ phía công quyền, hay từ các chủ thể khác, được bảo vệ, khôi phục trước hết bởi bộ máy hành chính, dựa trên cơ sở các quy phạm cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài và các loại quy phạm pháp luật khác mà cơ quan hành chính nhà nước có thể sử dụng, áp dụng. Có thể nói không một trường hợp vi phạm pháp luật nào xâm phạm tới quyền của con người, của công dân mà trước hết lại không được bảo vệ bởi hệ thống hành chính nhà nước. Đây là một thực tiễn trong đời sống nhà nước và xã hội cần được nhận thức và thừa nhận. Từ đó mà có nhận thức đầy đủ và khách quan về vai trò của bộ máy hành chính, của cơ chế pháp lý BHCD ở nước ngoài

  • 1.1.2.2. Mục đích bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài

Mục tiêu cao nhất trong công tác bảo hộ công dân là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam. Chính phủ không “bảo hộ” cho những hành động sai trái, vi phạm pháp luật nước sở tại.

Công dân Việt ra nước ngoài cần phải trang bị kiến thức và chấp hành nghiêm túc luật pháp, đặc biệt là luật pháp nước bạn, trước hết để tự bảo vệ bản thân mình khỏi những rắc rối. Nhưng vẫn rất cần “tấm đệm” bảo hộ công dân để quyền lợi những người Việt gặp bất trắc được tôn trọng, không bị xâm phạm như một số trường hợp đã diễn ra trong thực tế.

Xem Thêm ==>Dịch vụ viết chuyên đề thực tập , điểm cao 

  • 1.1.2.3. Ý nghĩa của bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài

Bảo hộ công dân trong nhiều thập niên chỉ được hiểu rất hẹp là việc bảo hộ ở nước ngoài bằng con đường ngoại giao và lãnh sự.

Một là, thiết lập nền tảng pháp lý để bảo hộ quyền công dân một cách hữu hiệu, qua đó, thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, tích cực giữa Nhà nước và công dân Ý nghĩa cơ bản và quan trọng của BHCD Việt Nam ở nước ngoài đó là khi không còn biện pháp, trình tự, thủ tục pháp lý thông thường thì sẽ cung cấp một nền tảng pháp lý để BHCD trong những hoàn cảnh, trường hợp cụ thể. Đồng thời, nền tảng pháp lý này chính là ranh giới cuối cùng, định biên giữa khả năng tác động, can thiệp của Nhà nước với quyền tự chủ (tự do, độc lập) của công dân. Do việc bảo hộ xuất phát từ quyền con người, tính chính đáng của Nhà nước, nên mục tiêu của BHCDVN ở nước ngoài là nhằm phát huy tính tích cực của người dân, cung cấp cho người dân những phương tiện hữu hiệu để có thể chủ động tự bảo vệ quyền của mình. Vì vậy, đây là cơ chế tốt nhất để kết nối được tất cả hình thức phản kháng của người dân (tố quyền) trong phạm vi quốc tế và khu vực.

Đồng thời, cơ chế này cũng giúp Nhà nước ý thức đầy đủ hơn trách nhiệm chính trị của mình trong mối quan hệ với công dân, có thái độ tích cực trong thực thi việcbảo đảm, bảo vệ quyền công dân. Căn cứ để yêu cầu Nhà nước phải thực thi trách nhiệm của mình trong quá trình BHCD một cách toàn diện và chủ động chính là vì đối tượng của bảo hộ là các quyền hiến định của công dân. Về nguyên tắc, các quyền hiến định phải được thừa nhận, bảo đảm, bảo vệ một cách trực tiếp và đương nhiên mà không cần thông qua một thủ tục trung gian nào. Không thể vin vào lí do chưa có luật cụ thể để từ chối khả năng thực thi cũng như việc bảo vệ quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có những quyền không thể thực hiện nếu không có những quy định cụ thể, hướng dẫn thủ tục thực thi. Với ý nghĩa đó, việc thiết lập những nền tảng pháp lý chặt chẽ cho vấn đề này là rất cần thiết.

Hai là, đặt cơ chế bảo hộ công dân trong chỉnh thể thống nhất với các cơ chế bảo đảm và bảo vệ công dân, giúp hoàn thiện các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền công dân, quyền con người Có thể thấy, cơ chế BHCD có phạm vi rất rộng, nhưng mục tiêu cơ bản là hướng đến con người, tạo lập môi trường sống tốt nhất cho con người, do đó, cũng không nằm ngoài tinh thần chung của hệ thống các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Mặt khác, vấn đề BHCD có những đặc trưng riêng, giúp bổ sung, hoàn thiện các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thông qua BHCD, việc bảo hộ đặc biệt phát huy tác dụng trong những tình huống, điều kiện hoàn cảnh cụ thể, khẩn cấp, khi các thủ tục, trình tự pháp lý thông thường không thể đáp ứng hoặc khi các biện pháp bảo đảm, bảo vệ không thể phát huy tác dụng.

Ba là làm rõ hơn nhận thức về các quyền cơ bản của công dân Dựa trên cơ sở làm rõ sự khác biệt giữa các quyền cơ bản với các quyền thông thường (không được quy định trong Hiến pháp), BHCD giúp phân định các phương thức thực hiện quyền: trực tiếp hay gián tiếp (thông qua trình tự, thủ tục luật định), làm rõ quyền nào được thực hiện trực tiếp, quyền nào phải thông qua các văn bản pháp luật hay dưới luật, tập quán (ví dụ như trong quyền sở hữu có những trường hợp phải áp dụng tập quán). Một điểm cần lưu ý trong nhận thức về các quyền cơ bản, đó là các quyền này phải được thực hiện độc lập, không nằm trong điều kiện ràng buộc với các nghĩa vụ cơ bản của công dân.

1.1.3. Điều kiện để được bảo hộ

Bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài nói chung và của người lao động Việt Nam ở nước ngoài nói riêng là một trong những mục tiêu hàng đầu của công tác quản lý di cư.

  • 1.1.3.1. Điều kiện là công dân Việt Nam

Đối tượng bảo hộ là công dân của quốc gia tiến hành bảo hộ. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam được xác lập trên cơ sở nguyên tắc huyết thống, nguyên tắc lãnh thổ, hoặc trên cơ sở cho nhập quốc tịch Việt Nam theo luật định. Công dân Việt Nam được hưởng quyền và gánh vác trách nhiệm công dân đối với nhà nước. Quyền và nghĩa vụ công dân Việt Nam được quy định trong hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác. Ðiều 49 Hiến pháp 2013 quy định: Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam làm việc, học tập, công tác và định cư ở nước ngoài được nhà nước Việt Nam bảo hộ.

  • 1.1.3.2. Người có hai quốc tịch nhưng dùng hộ chiếu Việt Nam đến nước thứ ba

Hiện nay, trong thực tiễn ghi nhận trường hợp có hai quốc tịch. Trên thực tế thì theo quy định tại

Điều 21 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 có quy định về trách nhiệm thông báo có quốc tịch nước ngoài của công dân Việt Nam như sau:

“1. Kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009, công dân Việt Nam vì lý do nào đó mà có quốc tịch nước ngoài và chưa mất quốc tịch Việt Nam, thì vẫn có quốc tịch Việt Nam.

  1. Trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày có quốc tịch nước ngoài, người quy định tại khoản 1 Điều này hoặc cha mẹ, người giám hộ của người đó, nếu ở ngoài nước phải thông báo cho Cơ quan đại diện Việt Nam có thẩm quyền theo quy định tại Điều 19 của Nghị định này; nếu ở trong nước phải thông báo cho Sở Tư pháp nơi người đó cư trú việc họ có quốc tịch nước ngoài, kèm theo bản sao giấy tờ chứng minh có quốc tịch nước ngoài.
  2. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Sở Tư pháp có trách nhiệm ghi vào Sổ quốc tịch khi công dân Việt Nam thông báo có quốc tịch nước ngoài”.

Trước tiên, lợi ích của người song tịch hai quốc tịch là được hưởng tất cả các ưu đãi, quyền lợi về kinh tế, chính trị, phúc lợi xã hội của cả hai quốc gia mà họ là công dân. Cụ thể là họ sẽ được sống, làm việc, được học tập, được chăm sóc sức khỏe, được đứng tên và sở hữu công ty, được sở hữu và mua bán bất động sản, được bão lãnh người thân, được quyền ứng cử, bầu cử…Đặc biệt, những người song tịch hai quốc tịch sẽ thuận tiện hơn trong việc việc xuất – nhập cảnh bởi họ không cần xin visa hoặc thẻ thường trú nhân vào nước mà họ đang giữ quốc tịch. Trường hợp công dân có hai quốc tịch và sử dụng quốc tịch Việt Nam khi nhập cảnh nước thứ ba thì công dân đó vẫn mang quốc tịch Việt Nam và sẽ được áp dụng các biện pháp BHCD trong trường hợp cần thiết. Trong trường hợp này, việc thực hiện các quy định về BHCD đối với trường hợp trên sẽ đảm bảo cho quá trình áp dụng trong thực tiễn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay đối với vấn đề BHCD của từng quốc gia nói riêng và theo pháp luật thế giới nói chung.

  • 1.1.3.3. Công dân được hưởng quy chế tị nạn

Người tị nạn là người vì lí do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, hoặc thảm họa tự nhiên, xung đột vũ trang… ở ngoài đất nước mà mình có quốc tịch và không thể hoặc không muốn nhận sự bảo hộ của quốc gia mang quốc tịch. Sự gia tăng nhanh chóng của làn sóng người tị nạn là một trong các yếu tố gây mất ổn định trên toàn cầu cũng như trong mỗi khu vực. Dòng người tị nạn hiện nay rất khác với dòng người tị nạn thời kì sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Lí do tị nạn cũng rất đa dạng, phức tạp. Vì vậy, việc phân biệt rõ người tị nạn và di dân kinh tế là khó khăn. Tuy nhiên, người tị nạn bất luận vì lí do gì vẫn có quyền hưởng những quyền con người tối thiểu nhất và những chuẩn mực đối xử sơ đẳng nhất.

Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật

Vấn đề người tị nạn được đề cập trong một số văn bản pháp lí quốc tế quan trọng như Công ước về vị thế người tj nạn năm 1951, Nghị định thư bổ sung về vị thế người tị nạn năm 1967…

[1] Luật Quốc tịch Việt Nam 2008.

[2] Điều 3(1)(b) Công ước Viên 1961

[3]  Từ điển tiếng Việt (2010) Nhà xuất bản Bách khoa Đà Nẵng

 


Trên đây là mẫu chuyên đề thực tập Lý Luận Chung Về Cơ Chế Pháp Lý Bảo Hộ Người Việt Nam Ở Nước Ngoài được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo