Download miễn phí báo cáo tốt nghiệp: Hoà giải tranh chấp đất đai theo luật đất đai năm 2013 dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Hoà giải tranh chấp đất đai theo luật đất đai năm 2013 được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình
Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149
Đề cương báo cáo thực tập: HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2021
1. Lý do chọn đề tài báo cáo thực tập:
Tranh chấp đất đai là sự xung đột, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các người sử dụng đất với nhau khi tham gia vào quan hệ pháp Luật đất đai. Tranh chấp đất đai ở nước ta xuất hiện trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của các quan hệ pháp luật đất đai. Trước Hiến pháp 1980, khi Nhà nước còn duy trì ba hình thức sở hữu đất đai là: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân thì có thể có tranh chấp về quyền sở hữu, về quyền – nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai[1]. Bước sang thời kỳ đổi mới hội nhập với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với những quan hệ kinh tế – xã hội khác, các quan hệ pháp luật đất đai cũng phát triển hết sức đa dạng, phức tạp, đòi hỏi pháp luật phải có cơ chế điều chỉnh phù hợp[2]. Sự thay đổi về quan điểm pháp luật dẫn đến sự xuất hiện hợp pháp của các giao dịch dân sự về đất đai như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn liên doanh bằng giá trị sử dụng đất…cũng từ đó mà đối tượng của tranh chấp đất đai đã có sự thay đổi, không chỉ là quyền quản lý, sử dụng đất đai mà còn tranh chấp trong quá trình xác lập và thực hiện các giao dịch về đất đai. Trong thực tế hiện nay thì việc yêu cầu về giải quyết các TCĐĐ trong thực tế đã và đang có những sự thay đổi bằng việc bổ sung các quy định pháp lý nhằm tạo nền tảng cơ bản cho quá trình hoàn thiện các quy định về QLNN về đất đai trong thực tế.
Với yêu cầu quan trọng của hoạt động giải quyết các tranh chất về đât đi trong thực tế thì yêu cầu về hòa giải tại cơ sở là điều vô cùng cần thiết. Thực tế thời gian qua cho thấy, tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp xảy ra phổ biến, rất phức tạp và hầu hết phải đưa ra giải quyết bằng con đường Tòa án. Rất khó để hạn chế tranh chấp, khi tranh chấp xảy ra rồi thì làm thế nào để hóa giải tranh chấp đó là vấn đề được nhiều cấp chính quyền quan tâm. Hòa giải là một trong những biện pháp hữu hiệu để giải quyết tranh chấp đất đai.
Hòa giải tranh chấp đất đai bắt đầu xuất hiện từ Luật đất đai 1993 (Điều 38) ở mức độ sơ khai, quy định chưa cụ thể. Đến Luật đất đai 2003, chế định về hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở được quy định rõ ràng, cụ thể hơn, tạo điều kiện để chính quyền cơ sở thực hiện việc hòa giải tranh chấp đất đai. Sau 10 năm thi hành, trải qua quá trình phát triển không ngừng của xã hội, các tranh chấp về đất đai xuất hiện ngày càng nhiều và mức độ phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, Luật đất đai 2003 bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắt, không còn phù hợp. Ngày 29 tháng 11 năm 2013, Quốc hội ban hành Luật đất đai 2013 với những quy định mới, góp phần tháo gỡ, giải quyết những bất cập, vướng mắc của Luật Đất đai 2003, phù hợp với tình hình thực tế về quản lý, sử dụng đất đai trên cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, giải quyết tranh chấp đất đai, cụ thể là hòa giải tranh chấp đất đai theo Luật đất đai 2013 phát sinh thêm những vấn đề vướng mặt mới, tồn tại bất cập chưa được giải quyết triệt để. Việc ban hành các quy định pháp luật về hòa giải cơ sở là nền tảng pháp lý quan trọng để thực hiện công tác về HGTCĐĐ trong thực tế ở nước ta đạt được những kết quả cao.
Đối với tình hình nghiên cứu về đề tài hòa giải tranh chấp đất đai đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, có thể kể đến một số công trình sau:
– Tòa án nhân dân tối cao, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ ( 2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân.
– Thanh Tú ( 2002), Vướng mắc khi áp dụng chế định hòa giải trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7, Hà Nội.
– Trần Văn Quảng (2012), Một số vấn đề về chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về hòa giải.
– Trần Văn Quảng ( 2008), Các phương thức thương lượng, hòa giải, trung gian ở Việt Nam của, hội thảo “Giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng tư pháp – thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”, Bộ Tư pháp và Tổ chức phát triển quốc tế Canada ( Dự án hỗ trợ cải cách pháp luật) đồng tổ chức ngày 23-24/8/2008
– Trần Văn Quảng (2004), “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
– Trần Văn Quảng ( 1999), Hòa giải – một phương thức phát huy dân chủ ở cơ sở, Thông tin khoa học pháp lý số 2, Hà Nội
– Nguyễn Thị Minh (2012), Hoà giải trong thương mại, thực trạng hoạt động và xu hướng phát triển ở Việt Nam, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về hòa giải.
– Nguyễn Xuân Trọng, Trần Hoài Nam (2010), Vướng mắc về pháp luật liên quan đến giải pháp tranh chấp, khiếu nại về đất đai, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 16.
– Nghiên cứu Hòa giải trong tranh chấp đất đai tại Việt Nam, phân tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và các khuyến nghị cho cải cách – Báo cáo của Cơ quan phát triển Quốc tế Australia và Quỹ Châu Á
– Mai Thị Tú Oanh năm (2013), Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta” , Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội
– Nguyễn Phương Thảo (2012), Quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về hòa giải.
– Luận án “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Thị Hương Lan;
– Luận án “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường Tòa án” của tác giả Mai Thị Tú Oanh (2013)….
Từ những nghiên cứu trên đã cho thấy rõ tầm quan trọng của hoạt động hòa giải về tranh chấp đất đai nói chung và hòa giải tại địa phương nói riêng là rất quan trọng. Vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Hòa giải tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2013, thực trạng tại Phường 15 Quận Bình Thạnh và một số kiến nghị” làm khóa luận tốt nghiệp chương trình Luật học hệ văn bằng hai của mình.
- Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua hoạt động nghiên cứu, tác giả đặt ra các mục tiêu nghiên cứu như sau:
– Nghiên cứu các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai theo pháp luật hiện hành
– Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hòa giải TCĐĐ được áp dụng tại phường 15, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
– Đề xuất và đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.
2.2.Câu hỏi nghiên cứu
– Quy định hiện hành về hòa giải tranh chấp đất đai được ghi nhận như thế nào?
– Thực tiễn áp dụng hòa giải tranh chấp đất đai tại Phường 15, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả và hạn chế như thế nào?
– Các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động giải quyết TCĐĐ tại phường 15, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh?
Xem Thêm ==>Dịch vụ viết chuyên đề thực tập , điểm cao
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai của UBND phường
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bản khoá luận tốt nghiệp hệ văn bằng hai cử nhân luật, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cụ thể sau:
– Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
– Tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân Phường 15 quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó nêu các kiến nghị góp phần bổ sung, hoàn chỉnh, khắc phục các bất cập về quy định pháp luật còn tồn tại, gây khó khăn cho công tác hòa giải tranh chấp đất đại tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, khoá luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
– Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin;
Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
– Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử…được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai, đặc trưng của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
– Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá v…v., được sử dụng trong chương 2 khi tìm hiểu quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
– Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng ở chương 3 khi xem xét, tìm hiểu về hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
5. Kết cấu Khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khoá luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về hòa giải tranh chấp đất đai;
- Chương 2: Luật Đất đai năm 2013 với vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai;
- Chương 3: Thực trạng hòa giải tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2013 tại Ủy ban nhân dân Phường 15 quận Bình Thạnh và một số kiến nghị.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai
Hòa giải là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả
thuận, tự nguyện giải quyết với nhau nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Hòa giải là biện pháp quan trọng và tích cực nhằm giải quyết các tranh chấp về dân sự nói chung và về tranh chấp đất đai nói riêng. Hòa giải phát huy truyền thống đoàn kết sẵn có của dân tộc ta, nâng cao sự hiểu biết về pháp luật của nhân dân, hòa giải còn giúp các bên tự nguyện thoả thuận với nhau về cách giải quyết tranh chấp mà không phải khởi kiện ra tòa án nhân dân, đỡ cho các bên phải đi lại tốn kém về tiền bạc, thời gian, tránh việc phải thi hành án vốn rất khó khăn, phức tạp trong giai đoạn hiện nay.
Đối với khái niệm về Tranh chấp đai là: Luật Đất đai 2013 nêu lên khái niệm cơ bản về mặt pháp lý để định nghĩa tranh chấp đất đai như sau: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.” [1]
Theo đó, tranh chấp đất đai là việc hai hoặc nhiều chủ thể trong quan hệ đất đai xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với nhau về các quyền và nghĩa vụ trong quá trình sử dụng đất. Các tranh chấp này có thể là tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất và tranh chấp về địa giới hành chính (ranh giới đất).
Hòa giải tranh chấp đất đai là một cách thức giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến quyền sử dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết quyền lợi của mình.
Hòa giải tranh chấp về đất đai hiện nay là một thủ tục mà các cơ quan có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh và Tòa án nhân dân) giải quyết tranh chấp đất đai yêu cầu các bên tranh chấp thực hiện trước khi giải quyết tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai
Một số đặc trưng cơ bản của hoà giải bao gồm:
Thứ nhất, hoà giải là một phương thức giải quyết tranh chấp, bất đồng mâu thuẫn do các bên tranh chấp tiến hành dựa trên việc tự thương lượng, thoả thuận mang tính chất tự nguyện, tự giác thực hiện.
Thứ hai, chủ thể trung tâm của hoà giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh chấp thoả thuận với nhau về giải quyết tranh chấp. Điều này làm cho hoà giải có sự khác biệt với thương lượng. Bên trung gian có thể là cá nhân, luật sư, tổ chức tư vấn hoặc các tổ chức khác do các bên thoả thuận lựa chọn. Người này phải có vị trí độc lập với các bên và không có lợi ích liên quan đến tranh chấp. Bên thứ ba làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra phán quyết.
Thứ ba, ở Việt Nam, các thoả thuận, cam kết từ kết quả của quá trình hoà giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên.
Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định: “Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này”[2].
Hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở là việc hòa giải viên tại địa phương, địa bàn dân cư đó hướng dẫn, giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp đất đai phát sinh, không cần thông qua cơ quan nhà nước. Theo đó, các bên có thể tự tổ chức hoặc không tổ chức việc hòa giải này. Quá trình hòa giải cơ sở với sự tham gia của các hòa giải viên không cần thiết phải tuân thủ quy trình, thủ tục và thời hạn luật định. Kết quả hòa giải không nhất thiết phải thể hiện bằng biên bản, có dấu xác nhận, các bên có thể ngầm công nhận kết quả của hòa giải cơ sở để tự mỗi bên thực hiện hoặc hành xử đối với vụ việc của mình với những gì các bên đã lĩnh hội của hòa giải viên và của chính mình thể hiện tại buổi hòa giải cơ sở đó.
Đây là việc hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp đối với các tranh chấp về đất đai theo quy định của Luật đất đai 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai. Đây là hình thức hòa giải mà khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu bởi hình thức hòa giải này được pháp luật hiện hành quy định là bắt buộc khi có tranh chấp đất đai xảy ra. Tranh chấp mà không được tổ chức hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và không được thể hiện bằng một biên bản hòa giải không thành thì cơ quan hành chính nhà nước cấp trên hoặc cơ quan tố tụng tư pháp cũng sẽ từ chối việc tiếp nhận đơn hoặc thụ lý vụ việc để giải quyết.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong hòa giải tranh chấp đất đai
1.2.1. Hòa giải phải tuân theo pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân
Khi giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân nếu như người hòa giải chỉ căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc, phong tục, tập quán của địa phương, dòng họ để dàn xếp các mâu thuẫn, tranh chấp thì chưa đủ và không mang lại hiệu quả. Các vụ tranh chấp chỉ dừng lại ở quy phạm đạo đức để hòa giải thì chưa hẳn đã mang lại hiệu quả tích cực và thỏa đáng. Một vụviệc chỉ được giải quyết và hiệu quả cao khi người hòa giải bên cạnh việc căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán còn cần phải nắm vững và vận dụng tốt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nhất là những quy định của pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Để thực hiện nguyên tắc này, tổ viên tổ hòa giải phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Trước hêt, cần nắm vững những quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến công tác hòa giải ở cơ sở như pháp luật đất đai, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính Bên cạnh việc nắm vững các quy định của pháp luật thì hòa giải viên còn phải biết kết hợp vận dụng phong tục tập quán. Tuy nhiên, phong tục tập quán ở đây phải là phong tục, tập quán tốt đẹp trong nhân dân, không trái với pháp luật, đạo đức xã hội .
Xem Thêm ==> 99+ chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật
1.2.2. Hòa giải phải khách quan, tôn trọng sự tự nguyện của các bên
Một trong những nguyên tắc quan trọng trong quan hệ dân sự là tôn trọng quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các đương sự và trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt các đương sự được đề cao. Do vậy, việc xây dựng các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai phải thể hiện được là phương tiện để những đương sự tham gia thực hiện được quyền tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận và tự định đoạt của mình, xuất phát từ quyền sử dụng đất là một quyền dân sự được pháp luật thừa nhận, chính chủ thể của quan hệ tranh chấp là chủ thể có quyền lợi trong vụ việc nên họ có thể thương lượng, thỏa thuận trên cơ sở vai trò trung gian, hỗ trợ của một bên thứ ba độc lập. Tuy nhiên, các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai phải thể hiện được việc hòa giải của bên thứ ba độc lập này hướng tới việc tìm kiếm một thỏa thuận giữa các bên có tranh chấp đất đai nhưng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội.
1.2.3. Hòa giải phải kịp thời, chủ động, kiên trì
Tranh chấp đất đai thường xuyên diễn ra rất gay gắt và phức tạp. Do đó, công tác hòa giải tranh chấp đất đai nếu không được thực hiện kịp thời, phù hợp về pháp lý, hài hòa về tình cảm thì những tranh chấp đất đai đó có thể sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, trở thành các vụ án hình sự nếu các bên không thực sự kìm chế được cảm xúc, gây mất đoàn kết trong nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, việc thực hiện hòa giải tranh chấp đất đai cần phải chủ động, kịp thời ngăn chặn các hệ quả xấu, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự có thể xảy ra, giữ được tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư.
1.3. Vai trò hòa giải tranh chấp đất đai
Một là, vai trò hòa giải tranh chấp đất đai đối với các bên tranh chấp. Hòa giải tranh chấp đất đai trước tiên có ý nghĩa quan trọng đối với chính các bên tranh chấp, giúp các bên hiểu biết và thông cảm với nhau, góp phần khôi phục tình đoàn kết láng giềng giữa họ, giúp các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp với tinh thần cởi mở, hòa nhã, hạn chế tối đa mâu thuẫn gay gắt phát sinh.
Hai là, vai trò hòa giải tranh chấp đất đai đối với xã hội. Thực tế cho thấy, tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp xảy ra phổ biến và rất phức tạp. Rất khó để hạn chế tranh chấp, mà khi tranh chấp xảy ra rồi thì làm thế nào để hòa giải nó là vấn đề được nhiều cấp chính quyền quan tâm. Những tranh chấp đất đai xảy ra ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống. Vì vậy, đòi hỏi phải có một biện pháp giải quyết tranh chấp đất đai một cách mềm dẻo, linh hoạt vừa giải thích được cho các bên tranh chấp hiểu quyền và nghĩa vụ của mình, vừa là bước đầu tìm hiểu nội dung tranh chấp của các bên, hướng các bên đi đúng hướng, đúng với nguyện vọng và yêu cầu của các bên tranh chấp; đồng thời giảm tải cho các cơ quan liên quan trong việc giải quyết tiếp theo. Do đó, hòa giải tranh chấp đất đai là lựa chọn cần thiết và quan trọng trong tiến trình giải quyết tranh chấp của các bên.
Hòa giải tranh chấp đất đai có lợi cho xã hội vì tạo bình yên trong cuộc sống vì về nguyên tắc, hòa giải coi như tất cả cùng thắng, có lợi cho các bên tranh chấp đất đai về cả tinh thần và vật chất. Để hòa nhập với pháp luật thế giới, xuất phát từ truyền thống lâu đời của dân tộc và thực tiễn xét xử các tranh chấp đất đai, việc quy định hòa giải trong tranh chấp đất đai đã trở thành một yêu cầu tất yếu, khách quan và là một vấn đề cần được quan tâm và hoàn thiện hơn nữa.
Kết luận chương 1
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về tranh chấp đất đai và pháp luật về hòa hòa giải tranh chấp đất đai, khoá luận đã xây dựng một cách đầy đủ và hoàn chỉnh khái niệm về hòa giải tranh chấp đất đai và các đặc điểm cơ bản của hòa giải tranh chấp đất đai. Trên cơ sở đó khoá luận cũng đã làm rõ được ý nghĩa cơ bản của hòa giải tranh chấp đất đai và pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai. Đồng thời thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống các qui định hòa giải tranh chấp đất đai và pháp luật về hòa gải tranh chấp đất đai qua các giai đoạn của pháp Luật đất đai Việt Nam, khoá luận đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các quy định về các biện pháp giải quyết tranh chấp đất đai nói chung, hòa giải tranh chấp đất đai nói riêng trong pháp luật đất đai Việt Nam. Kết quả nghiên cứu này giúp cho tác giả khoá luận có góc nhìn xuyên suốt và sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG 2: LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013 VỚI VẤN ĐỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
2.1. Quá trình ra đời của Luật Đất đai năm 2013 và các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai
2.1.1. Quá trình ra đời của Luật Đất đai năm 2013
Việc sửa đổi Luật Đất đai cùng lúc với Hiến pháp của đất nước là một dịp hiếm có trong lịch sử, là một sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới về chính sách đất đai nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và đảm bảo giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước.
Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với 212 điều, tăng 7 chương và 66 điều so với luật hiện hành, các chương tăng mới là các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai trước đây thuộc chương II Luật Đất đai năm 2003 tách ra (có 6 mục chuyển thành chương và bổ sung thêm một chương có nội dung mới). Luật Đất đai sửa đổi đã thể chế hóa đúng và đầy đủ những quan điểm, định hướng nêu trong Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Luật Đất đai năm 2013 được ban hành ghi nhận nhiều điểm vượt trội tiến bộ khi ghi nhận rõ hơn quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, đồng thời mở rộng hơn thời hạn giao, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp; sự biến chuyển này thể hiện rõ ràng hơn khi đã có những sửa đổi bổ sung liên quan đến Hòa giải tranh chấp đất đai vào năm 2018 nhằm phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, công tác triển khai cho thấy, vẫn còn tồn tại một số khái niệm mang tính chưa chuẩn xác. Bên cạnh đó, nhiều thuật ngữ mang tính phổ biến, thông dụng nhưng chưa được khái quát một cách tỏ tường, gây khó khăn, nhầm lẫn trong áp dụng thực hiện pháp luật.[3]
2.1.2. Quá trình ra đời các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai
Một là, giai đoạn Luật Đất đai năm 1987
Hiến pháp 1980 cũng như Luật đất đai 1987 đều khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Song cácvăn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã không xác định rõ quyền lợi của người sử dụng đất đã làm hạn chế hiệu quả sử dụng đất. Vấn đề hòa giải cơ sở trong hòa giải tranh chấp đất dai đất đai thời kỳ này không được đặt ra, mà các tranh chấp đất đai trong thời kỳ này tuân theocác quy định về hòa giải và thủ tục hòa giải tại Điều 43, 44 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đã được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 29/11/1989 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990.[4]
Hai là, giai đoạn Luật Đất đai năm 1993
Hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở lần đầu tiên được quy định trong Luật đất đai năm 1993 và tiếp tục được đề cao trong giai đoạn tiền tố tụng, đồng thời có những quy định mới hợp lý, cụ thể hơn. Theo đó, nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc hòa giải tranh chấp đất dai đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.[5]
Ba là, giai đoạn Luật Đất đai năm 2003. Điểm mới của Luật đất đai 2003 so với Luật đất đai năm 1993 là các bên được tự hòa giải hoặc thông qua tổ chức hòa giải ở cơ sở để hòa giải tranh chấp đất dai đất đai.Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì gửi đơn lên Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp yêu cầu giải quyết. Ủy ban nhân dân cấp xã có tráchnhiệm phối hợp với mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viêncủa mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai.
Bốn là, giai đoạn Luật Đất đai năm 2013. Luật Đất đai năm 2013 ra đời trên cơ sở kế thừa các ưu điểm, cũng như khắc phục các hạn chế của Luật Đất đai năm 2003, bổ sung thêm các quy định về thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất dai đất đai, quy định về việc người có thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất dai đất đai phải ra quyết định hòa giải tranh chấp đất dai, thay đổi thời hạn hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã,…Đồng thời, kể từ Luật Đất đai 2013, thì hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã trở thành thủ tục bắt buộc mà các cơ quan có thẩm quyền trước khi hòa giải tranh chấp đất dai yêu cầu các bên tranh chấp phải thực hiện.
2.2. Thực trạng các quy định của Luật Đất đai năm 2013 về hòa giải tranh chấp đất đai
2.2.1. Nội dung cơ bản các quy định của Luật Đất đai năm 2013 về hòa giải tranh chấp đất đai
2.2.1.1. Quy định chung về điều kiện thực hiện hòa giải tranh chấp đất đai
“Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc hòa giải tranh chấp đất dai đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở”[6]
Nhằm giữ vững tình cảm hàng xóm láng giềng, tối lửa tắt đèn có nhau. Đây là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc ta nên Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp tự hòa giải, hoặc hòa giải tại cơ sở. Bên cạnh đó, việc các bên tự hòa giải giúp giảm tải cho cơ quan hành chính trong việc hòa giải tranh chấp đất dai đất đai đang có xu hướng gia tăng trong bối cảnh xã hội hiện nay.
“Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”.[7]
Tranh chấp đất đai về cơ bản là tranh chấp dân sự giữa các bên liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ đối với đất. Do đó, pháp luật quy định cơ quan hành chính cấp xã – đại diện cho Nhà nước – chỉ tiến hành tổ chức hòa giải tranh chấp khi một trong các bên gửi đơn để yêu cầu hòa giải tranh chấp đất dai. Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ thực hiện khi người dân có yêu cầu. Nếu tranh chấp đất đai có diễn ra nhưng chưa có đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất dai thì Ủy ban nhân dân cấp xã cũng không tổ chức việc hòa giải.
2.2.1.2. Thành phần tham dự hòa giải tranh chấp đất đai
Thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai 2013 được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, cụ thể như sau:
“Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”.[8]
Về cơ bản thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai 2013 được giữ nguyên so với Luật Đất đai 2003. Điểm mới là việc bổ sung thêm thành phần là đại diện hội Nông dân, hội Phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên hội đồng (tùy trường hợp cụ thể). Đây là quy định tiến bộ của Luật Đất đai 2013. Thực tế, hiện nay rất nhiều trường hợp tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp là thành viên của các tổ chức trên. Quy định sự có mặt của đại diện các tổ chức trên mang lại ý nghĩa tích cực trong một số trường hợp. Các thành viên của Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và Đoàn thanh niên là những người thường xuyên gần gũi, tiếp xúc, giúp đỡ lẫn nhau, nên việc nắm bắt tình hình thực tế, nội dung mâu thuẫn tranh chấp, ý kiến, nguyện vọng của các bên được thực hiện dễ dàng và sâu sát hơn.
Thông qua đó, đại diện các tổ chức trên có thể đưa ra những giải pháp hòa giải phù hợp, làm giảm mâu thuẫn giữa các bên, giúp cho công tác hòa giải được thực hiện nhanh chóng. Đồng thời, các tổ chức chính trị – xã hội này đối với đoàn viên, hội viên của mình là bên có uy tín, xây dựng được niềm tin đối với các bên tranh chấp nên dễ dàng tác động tích cực đến nhận thức của các bên tranh chấp là đoàn viên, hội viên của tổ chức mình để từ đó các bên có thể thỏa thuận hòa giải thành công.
Mặc dù quy định về mời đại diện tổ chức chính trị – xã hội là thành viên Hội đồng hòa giải không phải là quy định bắt buộc khi tiến hành hòa giải. Nhưng thực tế trên địa bàn Phường 15 quận Bình Thạnh, hầu hết các trường hợp hòa giải đều có đại diện của các tổ chức chính trị – xã hội tham dự Hội đồng hòa giải (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh). Thông qua việc góp ý, trao đổi, giải thích của các đại diện các tổ chức chính trị – xã hội nêu trên, nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp, mâu thuẫn gay gắt đã được hòa giải thành công.
2.2.1.3. Thẩm quyền và phạm vi hòa giải tranh chấp đất đai
Pháp luật quy định trách nhiệm, thẩm quyền tổ chức hòa giải thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đây. Đây là quy định hoàn toàn phù hợp, nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính cấp xã trong việc hòa giải tranh chấp, ngăn ngừa tình trạng lãng tránh, sợ chịu trách nhiệm trong lĩnh vực đất đai đang có nhiều mâu thuẫn gay gắt. Cụ thể:
“Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác.”[9]
Tranh chấp đất đai xảy ra tại địa phương nào thì việc hòa giải được tổ chức thực hiện tại địa phương đó. Phạm vi hòa giải liên quan đến các mâu thuẫn về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình sử dụng đất tại địa phương.
Xem Thêm ==> Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
2.2.1.4. Các trường hợp không tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai
Luật Đất đai 2013 không quy định các trường hợp không tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai mặc dù có tranh chấp và có đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất dai tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Thực tiễn theo Quyết định số 06/2018/QĐ-UBND ngày 07/3/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quy định: “Không được hòa giải các tranh chấp đất đai phát sinh do hành vi vi phạm các quy tắc quản lý Nhà nước về đất đai mà theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính hoặc hình sự”.[10]
Bản thân tác giả nhận thấy việc bổ sung quy định về các trường hợp tranh chấp đất đai không tiến hành hòa giải này là hoàn toàn phù hợp. Các hành vi vi phạm quy tắc quản lý Nhà nước về đất đai đều là các hành vi vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc, các hành vi vi phạm pháp luật tùy mức độ sẽ tiến hành xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Do đó, các tranh chấp có nguồn gốc phát sinh từ các hành vi này đều không có cơ sở pháp lý để tiến hành hòa giải.
2.2.1.5. Điều kiện mở buổi hòa giải
“Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.”[11]
Pháp luật hiện hành quy định chỉ tiến hành buổi hòa giải khi có đủ các bên tranh chấp, không bắt buộc các thành phần khác phải tham dự đầy đủ. Quy định như vậy là phù hợp, để hòa giải hòa giải tranh chấp đất dai về cơ bản phải có đầy đủ các bên tranh chấp, có như vậy các mâu thuẫn giữa các bên mới được trình bày đầy đủ, chính xác. Từ đó, việc hòa giải được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả.
Một số ý kiến cho rằng đối với trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai nên bổ sung thêm “trừ trường hợp bất khả kháng” thì việc hòa giải mới được coi là hòa giải không thành.[12] Bản thân tác giả không đồng ý với quan điểm nêu trên. Việc hòa giải tranh chấp, hướng đến tìm tiếng nói chung giữa các bên tranh chấp. Các bên phải có thiện chí hợp tác cùng tháo dỡ vướng mắc, bất đồng. Vì vậy, trong trường hợp vắng mặt, không tham dự được thì bên tranh chấp đó nên chủ động liên hệ cơ quan chức năng để tiến hành sắp xếp thời gian hòa giải thích hợp.
Đồng thời, quy định về trường hợp các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai là điểm mới của Luật Đất đai 2013, quy định này khắc phục bất cập trước đây đối với tình trạng Ủy ban nhân dân cấp xã phải tổ chức buổi hòa giải nhiều lần do các bên vắng mặt, gây lãng phí về thời gian, công sức mà đa số các trường hợp này đều hòa giải không thành.
2.2.1.6. Trình tự tiến hành buổi hòa giải
Luật Đất đai 2013 và Nghị định 43/2014 không quy định chi tiết về trình tự tiến hành buổi hòa giải. Riêng đối đối với thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành phố quy định cụ thể vấn đề này tại Quyết định số 60/2018/QĐ-UBND ngày 07/3/2018, như sau:
“a) Chủ tịch Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai chủ trì cuộc hòa giải.
- b) Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Giấy mời phải được cơ quan tổ chức hòa giải gửi trước, ít nhất 03 ngày cho những người tham gia buổi hòa giải.
- c) Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.
- d) Công chức địa chính báo cáo lại nguồn gốc đất và diễn biến tranh chấp.
đ) Ý kiến của các bên tranh chấp và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có).
- e) Nội dung trao đổi giữa người chủ trì, thành viên buổi hòa giải với các bên tranh chấp.
- g) Người chủ trì buổi hòa giải căn cứ nguồn gốc diễn biến đất tranh chấp, điều kiện, hoàn cảnh của các bên để xem xét hòa giải căn cứ vào quy định của pháp luật trên nguyên tắc công khai, dân chủ..”[13]
Quy định chi tiết về trình tự tổ chức buổi hòa giải nêu trên là cần thiết, tạo được sự đồng bộ, thống nhất. Thông qua đó, Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành thực hiện, tránh tình trạng không biết trình tự, phải xin ý kiến của các cơ quan cấp trên, lãng phí thời gian.
2.2.1.7. Thời hạn hòa giải tranh chấp đất đai
“Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai”.[14]
Quy định theo Luật Đất đai 2013 về thời gian hòa giải là không quá 45 ngày là điểm mới so với quy định theo Luật Đất đai 2003 trước đây là 30 ngày. Các trường hợp tranh chấp đất đai thường phức tạp, đòi hỏi thời gian, công sức thu thập, xác minh thông tin, tổ chức hòa giải. Do đó, quy định thời gian dài hơn là phù hợp.
2.2.1.8. Kết quả hòa giải
“Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, gồm có các nội dung: Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải; thành phần tham dự hòa giải; tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu); ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai; những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận.
Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã.”[15]
Pháp luật quy định khi tổ chức hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì phải lập biên bản hòa giải. Theo đó, biên bản hòa giải phải có đầy đủ nội dung theo quy định, có chữ ký của các bên tham gia buổi hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã. Quy định nêu trên nhằm tăng cường giá trị pháp lý của việc hòa giải, thể hiện rõ việc các bên tranh chấp thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được về các nội dung tranh chấp, thể hiện việc tranh chấp đã được tổ chức hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Căn cứ vào kết quả hòa giải thành hoặc không thành nêu tại biên bản hòa giải. Các bên có thể thực hiện các bước tiếp theo theo quy định.
* Hiệu lực của biên bản hòa giải tranh chấp đất đai
Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai thể hiện ý chí, nguyện vọng của các bên tranh chấp về vấn đề tranh chấp đất đai khi được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong đó, Ủy ban nhân dân cấp xã đóng vai trò trung gian, là cầu nối để các bên tìm được tiếng nói chung. Khi đạt được thỏa thuận, các bên tranh chấp có thể thực hiện theo nội dung hòa giải. Tuy nhiên, sau khi hòa giải thành, các bên vẫn có thể thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải trở thành hòa giải không thành theo quy định tại Khoản 4, Điều 88, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP như sau: “Trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất dai tiếp theo.”[16]
Pháp luật không quy định về các biện pháp đảm bảo thực hiện theo nội dung Biên bản hòa giải được lập. Vì lẽ đảm bảo nguyên tắc cơ bản của hòa giải là dựa trên tinh thần tự nguyện, không áp đặt, bắt buộc thực hiện.
Đối với trường hợp các bên tranh chấp sau khi hòa giải mà thay đổi ý kiến khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai, quy định:“Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành.”[17]
Việc thay đổi ý kiến khác về nội dung đã thống nhất, không giống như trường hợp thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải nêu tại Khoản 4 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Vì vậy, có thể tổ chức thực hiện việc hòa giải lần hai để xem xét giải quyết với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành.
Quy định về thời hạn (10 ngày) trong trường hợp này nhằm mục đích hạn chế việc một trong các bên tranh chấp lợi dụng việc có ý kiến khác nhằm kéo dài thời gian hòa giải, gây khó khăn cho việc hòa giải tranh chấp đất dai. Nếu sau thời hạn này, mà một trong các bên tranh chấp có ý kiến khác thì sẽ dẫn chiếu về trường hợp hòa giải không thành, không tổ chức lại buổi hòa giải.
[1] Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013 [2] Điều 2, Luật Hòa giải cơ sở 2013 [3] Nghiên cứu Hòa giải trong tranh chấp đất đai tại Việt Nam, phân tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và các khuyến nghị cho cải cách – Báo cáo của Cơ quan phát triển Quốc tế Australia và Quỹ Châu Á [4] Nghiên cứu Hòa giải trong tranh chấp đất đai tại Việt Nam, phân tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và các khuyến nghị cho cải cách – Báo cáo của Cơ quan phát triển Quốc tế Australia và Quỹ Châu Á [5] Nghiên cứu Hòa giải trong tranh chấp đất đai tại Việt Nam, phân tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và các khuyến nghị cho cải cách – Báo cáo của Cơ quan phát triển Quốc tế Australia và Quỹ Châu Á[6] Khoản 1, Điều 202, Luật Đất đai 2013 [7] Khoản 2, Điều 202, Luật Đất đai 2013 [8] Điểm b, Khoản 1, Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP [9] Khoản 3, Điều 202, Luật Đất đai 2013 [10] Khoản 2, Điều 16, Quyết định số 06/2018/QĐ-UBND [11] Điểm c, Khoản 1, Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP [12] Nguyễn Xuân Trọng, Trần Hoài Nam (2010), Vướng mắc về pháp luật liên quan đến giải pháp tranh chấp, khiếu nại về đất đai, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 16. [13] Khoản 3, Điều 19, Quyết định số 06/2018/QĐ-UBND [14] Khoản 3, Điều 202, Luật Đất đai 2013 [15] Khoản 2, Điều 88, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP [16] Khoản 4, Điều 88, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP [17] Khoản 3, Điều 88, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
Trên đây là mẫu chuyên đề thực tập Hoà giải tranh chấp đất đai theo luật đất đai năm 2013 được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149