Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại

Rate this post

Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại được kham khảo từ bài khóa luận tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


1.1KHÁI QUÁT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Định nghĩa ngân hàng thương mại (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

  • NHTM hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài gắn liền với sự phát triển của nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu, khoảng thế kỷ XV đến XVIII, các NHTM hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc  ngân hàng. Sang thế kỷ XVIII, hệ thống ngân hàng phân hóa thành ngân hàng phát hành – sau này phát triển thành NHTW và hệ thống các NHTM chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Thực tế, có rất nhiều quan điểm cũng như định nghĩa khác nhau về NHTM.Ở Việt Nam, luật các TCTD (12/12/1997) quy định: NHTM là một TCTD thực  hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.Ngày 16/06/2010, luật các TCTD định nghĩa NHTM như sau: NHTM là một loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan như nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ qua tài khoản. Đây cũng là định nghĩa được sử dụng phổ biến nhất trong giai đoạn hiện nay.
    • Vai trò của ngân hàng thương mại

    NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế

    Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế. Điều đó muốn làm được lại cần có vốn. Vốn được coi như nguồn “thức ăn” chính thức cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.  Khi “thức ăn” bị thiếu, doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc không tiến hành kịp thời quá trình tái sản xuất. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế… Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới qui trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

 Xem Thêm ==> Dịch vụ viết báo cáo thực tập , điểm cao 

  •  NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các nhà kinh doanh trong xây dựng chiến lược quản lý doanh nghiệp

    Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào nhằm thực hiện thành công chiến lược 5P: Product (sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (giao tiếp, khuyếch trương), Place (địa điểm) và People (con người). Từ đó tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận. Qui trình đó chỉ được bắt đầu khi doanh nghiệp trang bị được đầy đủ vốn cần thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính. Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm vốn phục vụ chính họ. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng loại, chất lượng, thời gian, địa điểm… NHTM sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.

  • NHTM là cầu nối nền tài chính quôc gia với nền tài chính quốc tếTrong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò này ngày càng thể hiện rõ rệt hơn, áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền tài chính của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các NHTM vì hệ thống này có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay uỷ thác đầu tư… giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế vì hoạt động ngân hàng góp phần chống lạm phát.Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các Ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ  đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
    • Chức năng của ngân hàng thương mại (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Chức năng trung gian tài chính

    Chức năng trung gian tài chính là chức năng cơ bản, đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế. Thực hiện chức năng này, NHTM đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ bao gồm nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động mua giới khác. NHTM là trung gian giữa các khách hàng với nhau và cũng là trung gian giữa công chúng và NHTW.

    NHTM là trung gian giữa các khách hàng với nhau, là cầu nối giữa người đi vay và người cho vay hay nói rộng hơn là trung gian giữa bên thừa vốn và thiếu vốn.Người thừa vốn thì được hưởng lãi từ nguồn tiền nhàn rỗi, trong khi đó người thiếu vốn thì tiếp cận nguồn vốn một cách nhanh chóng, dễ dàng và kịp thời hơn. Ta có thể thấy: NHTM là trung gian tài chính vừa đi vay vừa cho vay.

    Mặt khác, NHTM là trung gian giữa NHTW với công chúng. Chức năng thể hiện  rất rõ rệt ở Việt Nam vì ở nước ta, NHTW (hay NHNN) không trực tiếp giao dịch với công chúng mà chỉ giao dịch với NHTM, trong khi NHTM giao dịch với cả hai bên.

    NHTM không chỉ là cầu nối trong nền kinh tế mà đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng thông qua các phương tiện thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…Chức năng này đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, hạn chế sử dụng tiền mặt góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

    Chức năng tạo tiền

    Ngoài chức năng quan trọng là trung gian tài chính, NHTM còn có chức năng tạo tiền hay còn gọi là chức năng tạo bút tệ góp phần gia tăng khối lượng tiền phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển nền kinh tế.

    Nhờ hoạt động chuyển khoản trong hệ thống ngân hàng mà các NHTM đã tạo ra  bút tệ trong một giới hạn nhất định dưới sự kiểm soát của NHTW. Quá trình tạo ra bút tệ là hệ quả tổng hợp của hoạt động nhận tiền gửi, thanh toán và cho vay của NHTM với nhau. Chức năng tạo tiền của NHTM chỉ được thực hiện nếu NHTM thực hiện huy động, cho vay, thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt. Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, do vậy NHTW có thể tăng, giảm tỷ lệ này để điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Chức năng sản xuất

    Chức năng trung gian tài chính và chức năng tạo tiền là hai chức năng cơ bản của NHTM. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nhiều nhà quản trị ngân hàng còn đề cập đến chức năng sản xuất của NHTM bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.

    Trên cơ sở sử dụng các yếu tố nhập lượng hay yếu tố đầu vào đặc thù của quá trình sản xuất, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ đặc thù để cung cấp cho khách hàng. Các sản phẩm và dịch vụ NHTM đặc thù có thể cung cấp bao gồm:

    • Các sản phẩm huy động vốn như tiền gửi và chứng từ có giá các loại.
    • Các sản phẩm cấp tín dụng như: cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất, tà trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, cho thuê tài chính,…
    • Các sản phẩm thẻ như: thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM,…
    • Các dịch vụ ngân hàng như: dịch vụ chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán quốc tế,…
    • Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ như: các hợp đồng giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi,…
    • 1.2 NGUỒN VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM

      • Khái niệm về nguồn vốn huy động của NHTM

    Nguồn vốn huy động là những khoản tiền và tài sản của các chủ sở hữu khác nhau trong xã hội mà ngân hàng được phép thu hút và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả đầy  đủ và đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Nguồn vốn huy động là nguồn tài nguyên to lớn nhất phục vụ cho các công tác kinh doanh của ngân hàng.

 Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp ngành Ngân hàng 

  •  
    • Các hình thức huy động vốn của NHTM
      • Nhận tiền gửi

    Tiền gửi là một loại tài sản nợ của ngân hàng được hình thành bởi các khoản ký thác của nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong xã hội mà ngân hàng được sử dụng cho hoạt động của mình. Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng phải có nhiệm vụ  hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Đồng thời, Ngân hàng sẽ cung ứng một số dịch vụ thanh toán, ngân quỹ,… theo yêu cầu của khách hàng. Nguồn tiền gửi trong nền kinh tế mà NHTM huy động rất đa dạng, phong phú bao gồm: (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    • Tiền gửi của dân cư:

    Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm, kiếm lời và dễ thanh toán. Đây là khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàngVốn huy động từ khách hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động. Tiền gửi của dân cư bao gồm 2 loại: TGTK và TGTT.

    • Tiền gửi tiết kiệm:

    Với loại tiền này, người gửi được ngân hàng giao cho một quyển sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền, sổ tiết kiệm có thể được dùng làm vật cầm cố hoặc chiết khấu vốn từ ngân hàng. Đây là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm thường dành cho khách hàng gửi tiền vào ngân hàng chủ yếu vì mục tiêu an toàn, sinh  lợi và đã có kế hoạch sử dụng trong tương lai.

    • Tiền gửi thanh toán:

    Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ cùng mở tài khoản TGTT tại ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng các nhu cầu thanh toán cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của ngân hàng.

    Tổng số dư của các tài khoản tiền gửi thanh toán thường rất lớn, ngân hàng có thể dùng để cho vay bằng cách sử dụng số dư của khách hàng này bù đắp cho khách hàng khác. Như vậy, loại tiền gửi này không giới hạn về thời gian, linh hoạt, mức độ biến  động lớn, chi phí ngân hàng phải trả cho khách hàng rất thấp.

    • Tiền gửi của các tổ chức kinh tế:

    Để đảm bảo an toàn tài sản đồng thời vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế vẫn có thể  gửi số vốn nhàn rỗi vào ngân hàng để thuận tiện cho quá trình sử dụng vốn, đơn vị có thể thanh toán qua ngân hàng cũng như sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác. Tổ chức kinh  tế có thể gửi vốn vào ngân hàng dưới hình thức: tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.

    • Phát hành giấy tờ có giá:

    Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn không thường xuyên tại  NHTM bằng việc phát hành cổ phiếu, chứng chỉ tiền gửi …Giấy tờ có giấy là chứng nhận do NHTM phát hành để huy động vốn trong một thời hạn nhất định, ngân hàng cam kết sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn.

    • Hình thức khác: (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các NHTM còn có thêm các khoản tiền gửi khác như: tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của kho bạc nhà nước, tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội …

    • Các khoản vay phi tiền gửi

    Ngoài nguồn vốn huy động có từ tiền gửi của cá nhân, tổ chức, NHTM có thể huy động vốn bằng cách vay NHNN, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay các TCTD khác. Các khoản huy động này thường có chi phí cao nhưng ổn định.

    • Vai trò hoạt động huy động tiền gửi
      • Đối với ngân hàng

    Nguồn vốn ngân hàng có được từ huy động tiền gửi được coi là nguồn vốn khá quan trọng đối với hoạt động kinh doanh sau đó của NHTM. Hoạt động của ngân hàng bao gồm hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và các hoạt động khác, điều này cho thấy huy động vốn, đặc biệt là huy động tiền gửi là một khâu quan trọng không thể thiếu đối với NHTM. NHTM sử dụng nguồn tiền huy động từ khách hàng tiến hành cho cấp tín dụng, kinh doanh và thu lợi nhuận.

    Trong kết cấu nguồn vốn, vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 10% tổng nguồn vốn, chủ yếu dùng để sử dụng vào mục đích xây dựng cơ sở vật chất, bù đắp rủi ro ngân hàng. Vốn vay trên thị trường tiền tệ chiếm 10%– 15% tổng nguồn vốn, dùng để đáp ứng nhu cầu kinh doanh tạm thời. Quan trọng nhất vẫn là nguồn vốn huy động tiền gửi chiếm  70% – 80% tổng nguồn vốn được dùng để cấp tín dụng vì đây là nguồn vốn giá rẻ lại dồi dào. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Nhờ nguồn vốn huy động này mà ngân hàng mở rộng quy mô kinh doanh, tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Thông qua hoạt động huy động tiền gửi sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng đa dạng hóa các dịch vụ thanh toán, thúc đẩy ngân hàng đổi mới công nghệ thông tin, mở rộng mạng lưới hoạt động và phát triển các dịch khác phục vụ khách hàng.

    • Đối với khách hàng

    Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, lợi ích đầu tiên họ nhận được là sự an toàn. Khách hàng dù là tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân đều được ngân hàng bảo đảm an toàn về số tiền họ gửi, ngân hàng đảm bảo hoàn trả tiền cho khách hàng bất kỳ lúc nào khách hàng yêu cầu. Đồng thời, ngân hàng cam kết bảo mật thông tin khách hàng, ngoại trừ chủ tài khoản sẽ không ai biết số dư, giao dịch,…nếu không có sự ủy quyền của chủ sở hữu, thậm chí là vợ/chồng (trừ trường hợp có lệnh của cơ quan chức năng).

    Trở thành khách hàng của ngân hàng, họ sẽ được hưởng lãi trên số tiền họ gửi vào, mức lãi suất cao hay thấp thùy thuộc vào loại hình gửi tiền, thời hạn và nhiều yếu tố khác. Ngoài việc có được lợi nhuận từ số tiền gửi, khách hàng còn được hưởng các dịch vụ ngân hàng như chuyển khoản, séc, ủy nhiệm chi, thẻ,…

    Ngày nay, các sản phẩm ngân hàng rất đa dạng, phong phú đặc biệt là các sản phẩm tín dụng. Dựa vào tình hình tài chính của khách hàng ngân hàng cung cấp sản phẩm thẻ tín dụng, với sản phẩm này khách hàng có được nhiều tiện lợi trong việc thanh toán. Một lợi ích khác cho khách hàng gửi tiền là sẽ được ngân hàng cung cấp vốn trong lúc thiếu vốn tạm thời. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    • Đối với nền kinh tế

    Đất nước đổi mới, kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi phải thay đổi mọi mặt, đặc biệt cách cách thức thah toán: nhanh hơn, tiện lợi hơn, hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn. Thanh toán không dùng tiền mặt hay thanh toán qua ngân hàng dần trở nên xu thế cũng như chủ trương nhà nước đang định hướng. Vốn nhàn rỗi gửi vào ngân hàng càng nhiều thì càng hạn chế được lượng tiền mặt lưu thông phần nào hạn chế được lạm phát.

    Huy động nguồn tiền trong nền kinh tế, NHTM đã thực hiện chức năng trung gian tín dụng, cung ứng kênh gửi tiết kiệm sinh lời, cung ứng nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện đất nước đang phát triển, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh ngày càng lớn thì càng cho thấy vai trò to lớn của NHTM hay cụ thể là nghiệp vụ huy động vốn đã đáp ứng kịp thời nguồn vốn cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Nguồn vốn của ngân hàng cho các doanh nghiệp vay đã tác động tích cực đến việc khai thác các thế mạnh tiềm năng của đất nước, làm bật dậy những khả năng kinh tế mới và thúc đẩy tốc độ độ tăng trưởng kinh tế quốc gia, tạo công ăn việc làm, giảm nạn thất nghiệp trong dân  cư. Qua đó, nghiệp vụ huy động tiền gửi góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước.

    • 1.3 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

      • Khái niệm

    TGTK là khoản tiền tích lũy để dành của dân chúng đem gửi vào Ngân hàng nhằm tích lũy dần để thực hiện một nhu cầu nào đó trong tương lai, được đảm bảo an toàn và sinh lợi.

    • Đặc điểm của tiền gửi tiết kiệm

    TGTK là sản phẩm tiền gửi phục vụ chủ yếu cho đối tượng khách hàng là cá nhân mang những đặc điểm sau:

    • Mục đích của TGTK là để hưởng lãi, thuận lợi sử dụng các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền của ngân hàng.
    • TGTK là nguồn vốn khá quan trọng đối với NHTM nhưng đây là nguồn vốn bị động, ngân hàng phải chờ khách hàng đến gửi.
    • TGTK có tính ổn định cao hơn tiền gửi thanh toán vì TGTK thông thường có kỳ hạn, nếu là TGTK không kỳ hạn thì mục đích gửi tiền vào ngân hàng vẫn là sinh lời nên khách hàng sẽ hạn chế rút trước hạn.
    • Chi phí quản lý TGTK tương đối thấp hơn TGTT vì khối lượng khách hàng ít, món tiền lớn và khối lượng các loại giao dịch qua ngân hàng không cao, thường xuyên. Tuy nhiên, ngân hàng phải trả chi phí cao hơn nhưng sẽ được sử dụng nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn.
      • Phân loại tiền gửi tiết kiệm
        • Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn

    Là hình thức tiết kiệm mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào không cần báo trước cho ngân hàng. Đối tượng gửi chủ yếu là những người tiết kiệm, dành dụm nhưng không xác định trước thời điểm chi tiêu nên chỉ gửi không kỳ hạn. Do đó, tiền gửi này không gửi vì mục đích thanh toán mà hầu như là dùng để trang trải cho những chi tiêu cần thiết, đột xuất; gửi với mục đích an toàn; ngoài ra còn thu được một khoản lợi tức được tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, quyền sử dụng vốn vẫn được chuyển từ khách hàng sang cho ngân hàng nhưng ngân hàng phải chịu chi phí cao hơn để đảm bảo chi trả nhu cầu rút vốn đột xuất của khách hàng, ngân hàng ít có được sự chủ động trong việc cân đối giữa huy động và cho vay.

    • Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn

    Là một cam kết gửi tiền giữa khách hàng và ngân hàng trong một kỳ hạn  nhất định. Mục đích của khách hàng khi đến với loại tiết kiệm này là kiếm lợi và an toàn.

    Với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, quyền sử dụng vốn được chuyển giao từ khách hàng sang ngân hàng; ngân hàng có thể chủ động cân đối đầu tư cho vay nên lãi suất thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Khi gửi tiết kiệm có kỳ hạn, khách hàng thường chỉ được rút vốn khi đến hạn; nếu rút trước hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng và chỉ được hưởng mức lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời cũng không được rút trước hạn từng phần.

    Đến hết kỳ hạn gửi tiền, nếu khách hàng không rút tiền, ngân hàng sẽ nhập tiền lãi vào gốc và tái gửi tự động. Lãi của tiền gửi có thể được trả trước hay sau. Đặc biệt, tất cả các sổ tiết kiệm đều có thể được xem là tài sản cầm cố để vay vốn hay là chứng từ có giá để chiết khấu đối với một số ngân hàng.

    • Tiền gửi tiết kiệm đặc biệt (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Để đa dạng hóa và tạo thêm tính tiện ích của sản phẩm tiết kiệm, nhằm thu hút khách hàng, giúp ngân hàng tăng thị phần huy động. Ngân hàng còn đưa ra một số loại hình tiết kiệm mới như sau:

    • Tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi suất bậc thang theo số dư.
    • Tiền gửi tiết kiệm tự động: Số tiền khách hàng yêu cầu được chuyển tự động từ các tài khoản không kỳ hạn (tài khoản nguồn) vào tài khoản có kỳ hạn (tài khoản tiết kiệm tự động) với chu kỳ xác định.
    • Tiền gửi tiết kiệm chọn kỳ lãnh lãi: khách hàng chọn gửi sản phẩm này được hưởng lãi suất cao hơn tiết kiệm thường, được rút vốn, lãi và điều chỉnh lãi suất định kỳ do khách hàng lựa chọn.Tiền gửi tiết kiệm gởi góp: là loại tiết kiệm có kỳ hạn mà khách hàng có thể gởi theo hình thức thỏa thuận nhiều lần vào một sổ tiết kiệm theo thời hạn nhất định đã đăng ký với ngân hàng. Hình thức này phù hợp với những khách hàng có thu nhập ổn định, và muốn tích lũy lâu dài cho tương
    • Tiền gửi tiết kiệm gửi một lần rút nhiều lần.
      • Ý nghĩa của tiền gửi tiết kiệm

    Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là một bộ phận vốn quan trọng, chủ yếu mà ngân hàng động viên, huy động được để quản lý, sử dụng cho vay và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác.

    Đối với khách hàng: khi có một số tiền tạm thời nhàn rỗi, người dân có thể đem gửi tiết kiệm tại ngân hàng với mục đích an toàn đồng thời thu được một khoản lợi tức định kỳ. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Đối với ngân hàng: vốn là một trong những yếu tố quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng:

    • Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: ngân hàng phải thường xuyên chi trả theo nhu cầu bất thường của khách hàng nên tốn kém nhiều chi phí, do đó lãi suất huy động thấ Và chính vì lãi suất huy động thấp nên chi phí đầu vào thấp; nhờ đó ngân hàng có thể giảm lãi suất đầu ra khi cần thiết mà vẫn đạt mức chênh lệch lãi suất đảm bảo lợi nhuận ngân hàng.
    • Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: ngân hàng nắm chắc được khoản vốn trong một thời kỳ nhất định để có kế hoạch cho vay, không cần phải tồn quỹ cao để đề phòng sự rút vốn bất thường; do đó, việc sử dụng nguồn vốn này để cho vay rất hiệu quả.
      • 1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM CỦA NHTM

    Hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm là một phần của hoạt động huy động vốn, những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn nói chung của ngân hàng cũng chính là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng.

    • Nhân tố môi trường

    Môi trường – nơi mà toàn bộ hoạt động của ngân hàng đều diễn ra trong đó. Giống như con người, các ngân hàng cũng cần có một môi trường trong sạch, lành mạnh, ổn định; có như thế, hoạt động ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển.  Đây là nhóm nhân tố tiên quyết, không chỉ ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng nói riêng mà có tác động đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Trong một môi trường kinh tế thuận lợi, lạm phát được kiềm chế ở mức vừa phải, các chủ thể trong nền kinh tế có nhiều điều kiện để phát triển, thu được nhiều lợi nhuận; hoạt động huy động vốn của ngân hàng từ đó cũng trở nên dễ dàng hơn. Tình hình chính trị, an ninh trật tự được ổn định, luôn được đảm bảo tốt; các quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng đều được quy định một cách cụ thể, rõ ràng và hợp lý, xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên… sẽ làm tăng lòng tin của người dân vào xã hội, vào ngân hàng; có như thế họ mới gửi tiền vào ngân hàng. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

  •  
    • Nhân tố chính sách

    Các chính sách mà Nhà Nước đưa ra ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn của ngân hàng, đặc biệt là các chính sách về kinh tế. Chẳng hạn:

  •  
    • Chính sách lãi suất: NHTM là định chế tài chính trung gian thực hiện đi vay để cho vay với lãi suất cao hơ Do đó phải có một chính sách lãi suất phù hợp làm cơ sở cho Ngân hàng nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi tức là phải đảm bảo các điều kiện: bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, ngoài tiền lãi còn có các lợi ích khác như sự an toàn, thanh toán tiện lợi.
    • Chính sách đầu tư: Nhà Nước đưa ra nhiều chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển; thu nhập của người dân tăng lên sẽ tạo thuận lợi cho công tác huy động của ngân hàng.
    • Chính sách thuế: thuế là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân, của các chủ thể trong nền kinh tế. Một khi Nhà Nước có chính sách thuế ưu đãi, chi phí cho sản xuất kinh doanh sẽ giảm, phần thu nhập của người dân tăng lên từ đó ảnh hưởng đến tiền gửi vào ngân hàng của mọi ngườ
    • Bảo hiểm tiền gửi cũng là một trong những chính sách của NHNN. Nó hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm để duy trì sự phát triển ổn định, an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng; từ đó tạo cho khách hàng sự an tâm khi gửi tiền vào ngân hàng.
      • Nhân tố thông tin

    Các ngân hàng đưa ra những thông tin nhanh chóng, chính xác kịp thời đến mọi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế; giúp họ nắm được mọi thông tin có liên quan đến ngân hàng, đến công tác huy động vốn của ngân hàng…Trên cơ sở những thông tin đó, khách hàng sẽ đưa ra những quyết định của mình, trong đó có quyết định gửi tiền tại ngân hàng hay không. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

  •  

    Công nghệ là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của ngân hàng. Những thay đổi và tiến bộ của công nghệ ứng dụng vào ngân hàng đã tạo ra một cuộc cách mạng công nghệ trong ngành ngân hàng. Các ngân hàng ứng dụng công nghệ cao thì càng tăng được khả năng huy động vốn vì càng tăng khả năng  tiếp cận với khách hàng, giảm được thời gian… Hiện nay các NHTM ở nước ta đã đưa máy rút tiền tự động ATM vào thị trường để khách hàng có thể rút tiền ở mọi lúc, mọi nơi.

    • Nhân tố khách hàng

    Thu nhập của người dân: ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu gửi tiền. Khó có thể có chuyện người dân sẽ gửi tiền vào ngân hàng khi cuộc sống của họ chưa được đảm bảo, những nhu cầu trong cuộc sống của họ chưa được thỏa mãn; vì vậy, một khi  thu nhập của người dân tăng lên, khả năng thỏa mãn nhu cầu hằng ngày của họ  được nâng cao thì nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng theo đó mới có điều kiện phát triển.

    Thói quen: cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Do ảnh hưởng của nền kinh tế trước đây, một khi có tiền dư thừa, nhàn rỗi, thay vì gửi vào ngân hàng, người dân thuờng có thói quen cất giữ trong nhà dưới hình thức tiền mặt hay vàng…Thói quen này của người dân đã gây khó khăn cho ngân hàng khi muốn huy động tiền gửi; làm cho lượng tiền trong lưu thông trở nên nhiều hơn và không được sử dụng hiệu quả. Chính vì vậy, việc thay đổi dần tập quán, thói quen giữ tiền tại nhà của người dân sẽ giúp cho việc huy động vốn của ngân hàng đạt được hiệu quả cao hơn.

  •  Lòng tin, tâm lý: một khi người dân đã có thói quen tìm đến ngân hàng khi có tiền dư thừa nhàn rỗi nhưng lòng tin của họ vào ngân hàng bị giảm sút, lung lay, họ không an tâm khi gửi tiền vào ngân hàng thì thói quen cũng không còn ý nghĩa, người dân cũng sẽ thay đổi thói quen đó và như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng vẫn gặp khó khăn. Giữ được lòng tin của người dân vào ngân hàng, tạo cho họ sự an tâm khi gửi tiền vào ngân hàng là một trong những nhân tố tác động tích cực, tạo thuận lợi cho hoạt động huy động của ngân hàng. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)
    • Nhân tố thuộc về ngân hàng

    Chiến lược kinh doanh của ngân hàng cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác huy động vốn. Một ngân hàng có hệ thống chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ đạt được các mục tiêu đề ra về chi phí lẫn lợi nhuận. Chiến lược giá, lãi suất, phân phối, phát triển nhân sự… có tác động mạnh đến việc huy động vốn, tạo được niềm tin đối với khách hàng.

    Uy tín và vị thế của ngân hàng: thông thường khách hàng lựa chọn những ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị trường để giao dịch. Nhằm làm tăng lòng tin của người dân, các ngân hàng thông qua hoạt động của mình, bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ hiện đại, phong cách làm việc văn minh, lịch sự… thỏa mãn tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng, là thiết thực nâng cao uy tín và vị thế trên thị trường.

    Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nhân viên: hầu hết tất cả các khách hàng đều muốn giao dịch với ngân hàng có địa điểm đẹp, cơ sở vật chất hiện đại, đội ngũ cán bộ nhân viên nhiệt tình, lịch thiệp, làm việc nhanh nhẹn và hiệu quả.

    Mức lãi suất cạnh tranh: hiện nay trên thị trường có rất nhiều ngân hàng được thành lập, việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã  trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có. Bởi lẽ, một khi lãi suất huy động cao, người dân sẽ thu được nhiều lợi hơn khi gửi tiền nên ngân hàng có lãi suất tiền gửi cao đương nhiên sẽ được lựa chọn. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Các hình thức huy động và dịch vụ kèm theo: trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện của mình, do đó các NHTM có thể thu hút lượng khách hàng đến với  mình ngày càng nhiều hơn. Ngoài ra ngân hàng còn phải được các dịch vụ với nhiều tiện ích kèm theo sẽ giúp ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn từ dân cư và mọi thành phần kinh tế trong xã hội.

    • 1.5 MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

      • Đối tượng phạm vi áp dụng
        • Đối tượng

    Đối tượng gửi tiền tiết kiệm bằng đồng Việt Nam là các cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

    Đối tượng gửi tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ là các cá nhân người cư  trú.

    • Phạm vi áp dụng

    Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng  chính sách, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân được nhận tiền gửi tiết kiệm của mọi cá nhân theo các loại kỳ hạn khác nhau.

    Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn từ một năm trở lên của mọi cá nhân.

    Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, tổ chức tín  dụng 100% vốn nước ngoài, phạm vi nhận tiền gửi tiết kiệm được thực hiện theo quy định hiện hành của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về đối tượng gửi tiền, kỳ hạn và mức huy động tối đa.

    Các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng được nhận tiền gửi tiết kiệm theo quy định tại giấy phép hoạt động và các văn bản pháp luật khác có liên quan về tiền gửi tiết kiệm.

    Việc nhận tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ chỉ áp dụng đối với các tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm được phép hoạt động ngoại hối và phải phù hợp với quy định hiện hành của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về quản lý ngoại hối.

    • Quy chế bảo hiểm tiền gửi

    Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi các báo cáo theo quy định của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo ngay với tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong những trường hợp sau đây:

    • Gặp khó khăn về khả năng chi trả.
    • Khi thay đổi các thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc).

    Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi các báo cáo tài chính năm.

    Khi phát hiện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ  chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thực hiện các biện pháp chấn chỉnh, đồng thời báo cáo bằng văn bản với Ngân hàng Nhà nước.

    Trong trường hợp xét thấy hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, thất thoát lớn về tài sản hoặc có tác động nghiêm trọng tới các tổ chức tín dụng khác, thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước có biện pháp xử lý khẩn cấp.

    Tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm cung cấp theo định kỳ các thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cho Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan.

    Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quyền tiến hành kiểm tra việc chấp hành các qui định tại Nghị định này của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

    Thanh tra Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm cung cấp kết quả thanh tra, giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi; phối hợp xử lý kịp thời các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi trả, vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ quá hạn cao.

    Trường hợp tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, Ban Kiểm soát đặc biệt có trách nhiệm thông báo định kỳ về tình hình hoạt động của tổ chức đó cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để phối hợp xử lý.

    Trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể hỗ trợ dưới các hình thức sau:

    • Cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm;
    • Bảo lãnh cho các khoản vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi được bảo hiểm.
    • Mua lại nợ trong trường hợp khoản nợ đó có tài sản bảo đảm.

    Việc hỗ trợ này do Hội đồng quản trị tổ chức bảo hiểm tiền gửi xem xét quyết định.

    Tổ chức bảo hiểm tiền gửi chỉ tiến hành các biện pháp hỗ trợ sau khi xác định rằng việc tiếp tục hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đang gặp khó khăn có vai trò quan trọng đối với sự bảo đảm an toàn của toàn hệ thống và sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội.

    Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó mất khả năng thanh toán, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo nguyên tắc được qui định tại Điều 4 của Nghị định này. (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

 

Số tiền gửi (gồm gốc và lãi) vượt quá mức tối đa được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả sẽ được trả cho người gửi tiền trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phù hợp với qui định của Luật Phá sản.

Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được thực hiện thông qua các ngân hàng hoặc theo thoả thuận với người gửi tiền.

Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền hoặc người được ủy quyền hợp pháp, được thực hiện căn cứ vào danh sách những người gửi tiền do tổ chức bảo hiểm tiền gửi phối hợp với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lập và căn cứ vào các chứng từ hợp lệ.

Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại
Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại

Trong trường hợp vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tạm thời không đủ để hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn về khả năng chi trả hoặc để chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước để Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay của tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ.

Trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó với số tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã chi trả cho người gửi tiền. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quyền tham gia quá trình quản lý và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Luật Phá sản (Phân tích và định giá thế chấp tại Ngân hàng thương mại)

Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.


Trên đây là mẫu Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại được chia sẻ miễn phí, các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây. Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên, nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo