Download miễn phí Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận về hoạt động nhập khẩu linh kiện phụ tùng xe ô tô của doanh nghiệp dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, mẫu Cơ sở lý luận về hoạt động nhập khẩu linh kiện phụ tùng xe ô tô của doanh nghiệp được kham khảo từ báo cáo tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình
Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149
1.1. Khái quát về hoạt động nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm về hoạt động nhập khẩu
hiện thông qua việc mua hàng hoá dịch vụ từ một nước bên ngoài để phục vụ cho sản xuất cùng với việc tái sản xuất nhằm thu lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong nước .Cũng về phần xã hội nó sẽ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa cũn thiếu. Do sự phõn công lao động trên thế giới ngày càng trở lên sõu sắc .Nó sẽ dẫn đến năng suất lao động xã hội tăng lên .Vì vậy mà các quốc gia sẽ sản xuất ra những mặt hàng mà mình có lợi thế và họ sẽ nhập lại những mặt hàng mà mình không có lợi thế.Do vậy nhập khẩu nó được coi là hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra trên phạm vi tất cả các quốc gia .Nên nhập khẩu nó là hoạt động mang tớnh hệ thống và đươc tổ chức một cách chặt chẽ có quy mô để có thể cõn đối lượng hàng hoá đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia được ổn định.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá ở quốc gia khác về cho nước mình để tái sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng .Do vậy, nó sẽ phức tạp hơn việc mua hàng hoá trong nước vì nó có nhiều vấn đề liên quan đi kốm như: phải mua qua trung gian, đồng tiền thanh toán, tập quán mua bán quốc tế, hàng hoá thường đi qua các cửa khẩu lên phải làm thủ tục hải quan, các loại thuế nhập nhẩu …
Mục tiêu chính của nhập khẩu là nhằm đạt được hiệu quả cao từ việc nhập khẩu vật tư hàng hoá, đảm bảo cho quá trình liên tục sản xuất và nõng cao năng suất lao động đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước.Hơn nữa còn bảo vệ các ngành sản xuất giải quyết vấn đề khan hiếm nguồn lực trong nước .Mặt khác b ằng c ách khai thác lợi thế so sánh quốc gia thì các quốc gia có thể đảm bảo phát triển các ngành mũi nhọn ,tạo ra sức cạnh tranh cho quốc gia trên thị trường quốc tế .Do vậy các quốc gia sẽ có những chớnh sách linh hoạt kết hợp hài hoà giữa hiệu quả nhập khẩu và cán cõn thanh toán.
Xem Thêm ==> Viết chuyên đề thực tập , giá rẻ
1.2 Đặc điểm:
Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá của một quốc gia khác hoạt động nhập khẩu này được phát triển dựa trên nhưng tập quán thông lệ quốc tế. Vì các giao dịch mua bán này đựơc thực hiện giữa những người ở những quốc gia kh ác nhau có quốc tịch khác nhau.
Thương mại quốc tế mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động về chớnh trị của các nước nhập khẩu và xuất khẩu .Nhờ vậy mà các doanh nghiệp của các quốc gia có mối quan hệ làm ăn lõu dài và việc lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn.Tuy vậy nó vẫn bị chi phối bởi các chớnh sách luật pháp của các quốc gia khác nhau.Vì nhà nước quản lí các hoạt động ngoại thương thông qua các công cụ khác nhau như:hạn ngạch, thuế… cùng các mặt hàng được quyền xuất hoặc nhập theo danh mục hàng hoá để có thể tạo sự ổn định và an toàn cho nền kinh t ế nội địa.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động nhập khẩu
Thị trường nhập khẩu rất đa dạng : Hàng hoá và dịch vụ có thể được nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau. Dựa trên lợi thế so sánh của m_I quốc gia khác nhau mà các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để mở rộng,thu hẹp hay thay đổi thị trường nhập khẩu của mình.
– Đầu vào( nguồn cung ứng trong đó có nguôn nhập khẩu ), đầu ra ( khách hàng ) của doanh ngiệp rất đa dạng thường thay đổi theo nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Nguồn cung ứng hoặc đầu ra có thể ổn định, tập trung hoặc đa dạng phu thuộc vào điều kiện kinh doanh của công ty, khả năng thích nghi và đáp ứng cầu thị trường cũng như biến dộng của nguồn cung ứng.
– Phương thức thanh toán : Trong kinh doanh nhập khẩu các bên sử dụng nhiều phương thức thanh toán , việc sử dụng phương thức thanh tóan nào là do hai bên tự thỏa thuận được quy định trong điều khoản của hợp đồng và trong kinh doanh nhập khẩu thường sử dụng các ngoại tệ mạnh chủ yếu là USD để thanh toán. Vì vậy mà thanh toán trong nhập khẩu phụ thuộc rất lớn vào tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền nội tệ(VND) và ngoại tệ.
– Chịu sự chi phối của nhiều hệ thống luật pháp, thủ tục:Hoạt động nhập khẩu có sự tham gia của nhiều đối tác có quốc tịch khác nhau nên chịu sự chi phối bởi các hệ thống luật pháp và các thủ tục liên quan của nhiều nước khác nhau.
– Việc trao đổi thông tin với đối tác phảI được tiến hành nhanh chóng thông qua các phương tiện công nghệ hiện đại hơn như Telex, Fax. Đặc biệt trong thời đại thông tin hiện nay giao dịch qua thư điện tử, qua hệ thống mạng internet hiện đại là công cụ phục vụ đắc lực cho kinh doanh.
– Về phương thức vận chuyển: Hoạt động nhập khâủ liên quan trực tiếp đến yếu tố nước ngoài, hàng hóa được vận chuyển qua biên giới các quốc gia, có khối lượng lớn và được vận chuyển qua đường biển, đường hàng không, đường sắt và vận chuyển vào nội bộ bằng các xe có trọng tảI lớn …Do đó hoạt động nhập khẩu đòi hỏi chi phí vận chuyển lớn làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3. Các hình thức nhập khẩu
1.1.3.1. Căn cứ vào tính chất của hoạt động xuất khẩu
- Nhập khẩu trực tiếp: là hình thức trong đó nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu có mối quan hệ trực tiếp với nhau để bàn bạc thoả thuận về giá cả, phương thức giao dịch, phương thức thanh toán và các điều kiện giao hàng khác.
Ưu điểm:
Cho phép doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với nhà cung ứng. Giảm các chi phí trung gian, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động nhập khẩu sẽ được nâng cao do hai bên giao dịch trực tiếp nên dễ dàng thống nhất, ít xảy ra hiểu lầm sai sót đáng tiếc.
Hạn chế:
Khối lượng giao dịch phải đủ lớn để bù đắp được chi phí phát sinh trong giao dịch trực tiếp như chi phí giấy tờ đi lại, khảo sát thị trường.
Doanh nghiệp phải đủ tiềm lực về tài chính cũng như có nguồn nhân lực có trình độ và kinh nghiệm thì mới có khả năng thực hiện thành công hoạt động nhập khẩu này.
- Nhập khẩu gián tiếp: là hình thức thông qua các trung tâm thương mại, trung tâm môi giới nhập khẩu tức là thông qua trung gian thương mại.
Hình thức nhập khẩu này có những ưu điểm và hạn chế gần giống như hình thức nhập khẩu uỷ thác.
- Tạm nhập tái xuất: là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam.
1.1.3.2. Căn cứ vào mức độ tham gia của doanh nghiệp
- Nhập khẩu tiểu ngạch: Thường áp dụng với hàng hoá không chịu sự quản lý của Nhà nước. Về thủ tục hành chính, hàng hoá nhập khẩu tiểu ngạch phải làm thủ tục kê khai hải quan và đóng thuế tiểu ngạch do Bộ Tài chính quy định và ban hành thống nhất trong cả nước. Nhập khẩu tiểu ngạch chính là nhập khẩu hàng hoá qua biên giới với khối lượng từng đợt nhỏ.
- Nhập khẩu chính ngạch: Là phương thức nhập khẩu chịu sự quản lý của Nhà nước trực tiếp thông qua Bộ Thương mại. Nhập khẩu chính ngạch mang tính chất kinh doanh lớn, có thị trường ổn định.
1.1.4. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1.1.4.1. Đối với nền kinh tế toàn cầu
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày nay rất được chú trọng, nó trở thành một hoạt động rất cần thiết đối với mọi quốc gia. Mỗi quốc gia muốn phát triển được phải tham gia vào hoạt động này. Bởi vì mỗi quốc gia khác nhau về điều kiện tự nhiên có thể có điều kiện thuận lợi về mặt này nhưng lại khó khăn về mặt hàng. Vì vậy để tạo sự cân bằng trong phát triển, các quốc gia trên tiến hành xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế và nhập những mặt hàng mà mình không có hoặc nếu có thì chi phí sản xuất cao…. Nói như vậy thì không phải nước nào có lợi thế thì mới được tham gia hoạt động xuất khẩu, mà ngay cả những quốc gia có bất lợi trong sản xuất hàng hoá thì vẫn chọn sản xuất những mặt hàng nào bất lợi nhỏ hơn và trao đổi hàng hóa.
Thông qua hoạt động xuất khẩu các quốc gia có thể hạn chế được những khó khăn của mình, từ đó thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Cũng thông qua hoạt động này các nước có thể nhanh chóng tiếp thu được trình độ kĩ thuật công nghệ tiên tiến, từ đó mới có thể phát triển kinh tế và giải quyết các mâu thuẫn trong nước tăng nguồn thu nhập góp phần vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.
1.1.4.2. Đối với nền kinh tế quốc gia
Bốn điều kiện để phát triển và tăng trưởng kinh tế là: nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và kĩ thuật công nghệ. Mỗi quốc gia khó có thể đáp ứng được bốn điều kiện trên vì vậy hoạt động xuất khẩu là tất yếu để tạo điều kiện phát triển. Đây cũng là con đường ngắn nhất để những kém phát triển có thể nhanh chóng nắm bắt được kĩ thuật công nghệ tiên tiến của thế giới.
Xuất khẩu có những vai trò sau đây:
– Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ CNH- HĐH đất nước.
Các nước đang phát triển thì thiếu thốn nhất là khoa học công nghệ và vốn, muốn nhập khẩu kĩ thuật công nghệ thì phải có nguồn ngoại tệ, muốn có nhiều ngoại tệ thì cần phải tổ chức hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Nguồn vốn nhập khẩu được hình thành từ các nguồn sau: dựa vào đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ, các hoạt động du lịch, vay vốn, các dịch vụ thu ngoại tệ trong nước…. Thông qua các nguồn này cũng thu được một lượng ngoại tệ lớn, nhưng huy động nó rất khó khăn và bị lệ thuộc quá nhiều vào nước ngoài, do vậy hoạt động xuất khẩu vẫn là nguồn vốn lớn nhất và quan trọng nhất, nó có tầm chiến lược với mỗi quốc gia để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
– Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ hình thái này sang hình thái khác là tất yếu đối với mỗi quốc gia, ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thì hình thái chuyển dịch này khác nhau, nó phụ thuộc vào mức tăng trưởng nền kinh tế của mỗi nước và kế hoạch phát triển của các quốc gia đó, ví dụ ở nước ta Đảng và Nhà nước đặt mục tiêu đến năm 2020 chúng ta cần đạt được mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế phải chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp là chính sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển các ngành dịch vụ.
Tác dụng của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là:
Xem Thêm ==> Kho chuyên đề tốt nghiệp Quản trị kinh doanh
+ Xuất khẩu những sản phẩm thừa so với tiêu dùng nội địa, ở những nước lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, sản xuất chưa đủ đáp ứng tiêu dùng, vì vậy nếu chỉ xuất khẩu những mặt hàng xuất khẩu thừa tiêu dùng nội địa thì xuất khẩu sẽ bị bó hẹp và tăng trưởng kinh tế rất chậm.
+ Khi có thị trường xuất khẩu thì sẽ thúc đẩy quá trình tổ chức sản xuất phát triển, nó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành khác có liên quan ví dụ khi sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phát triển thì nó sẽ kéo theo các ngành như gốm, sứ, mây tre đan, thêu dệt… cũng phát triển theo.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng mở rộng sản xuất cung cấp đầu vào mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia vì thường cho phép một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều khả năng giới hạn sản xuất của quốc gia đó.
+ Thúc đẩy chuyên môn hoá, tạo lợi thế kinh doanh, xuất khẩu giúp cho các quốc gia thu được một lượng ngoại tệ lớn để ổn định và đảm bảo phát triển kinh tế.
+ Xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập.
+ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển làm cho các nước phụ thuộc vào nhau hơn, dựa vào nhau cùng phát triển.
1.1.4.3. Đối với doanh nghiệp
Trong quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế thế giới. Các cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp rất nhiều, nó là sự sống còn của nhiều doanh nghiệp, nếu như doanh nghiệp thu, tìm được nhiều bạn hàng thì sẽ xuất khẩu được nhiều hàng hoá và sẽ thu được nhiều ngoại tệ cho quốc gia cũng như cho chính doanh nghiệp để đầu tư phát triển. Thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nhanh chóng tiếp thu được khoa học kĩ thuật, từ đó có khả năng củng cố tổ chức sản xuất, nâng cao mẫu mã, chất lượng, uy thế và địa vị của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế cũng thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu nhanh chóng hoàn thiện sản phẩm của mình củng cố đội ngũ cán bộ công nhân viên nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong sản xuất cũng như trong xuất khẩu, mục đích để tạo lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trên thị trường thế giới.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình nhập khẩu của doanh nghiệp
1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu
1.2.1.1. Sản lượng hàng nhập khẩu
Chất lượng là một trong các yếu tố quan trọng tạo lên ưu thế cạnh tranh của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cao phải đặt trong mối quan hệ với giá cả, mẫu mã và các các dịch vụ của doanh nghiệp khi kinh doanh trên thị trường. Sản phẩm có chất lượng cao, giá cả, mẫu mã phù hợp với thị trường mục tiêu sẽ tạo ra ưu thế, uy tín riêng của doanh nghiệp về sản phẩm của mình.
Các doanh nghiệp xuất khẩu muốn thúc đẩy xuất khẩu thì phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản phẩm của các nước khác trên thế giới. Nâng cao chất lượng sản phẩm gắn liền với sự phát triển công nghệ của doanh nghiệp, và đặc biệt là với yếu tố chi phí. Nâng cao chất lượng với chi phí tối thiểu cho phép là biện pháp mà doanh nghiệp nào cũng muốn nhưng để thực hiện nó là cả một vấn đề.
Hiện nay hướng đi cho các doang nghiệp xuất khẩu là áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để khẳng định chất lượng sản phẩm của mình và kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất để đưa ra giá cả hợp lý cho sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng
1.2.1.2. Giá trị hàng nhập khẩu
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cũng có thể được tính bằng cách so sánh nghịch đảo:
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu | = | Chi phí bỏ ra cho hoạt động nhập khẩu
Kết quả thu được từ hoạt động nhập khẩu |
Công thức này phản ánh sức hao phí của các chỉ tiêu bỏ ra, nghĩa là để có một kết quả thu được thì hao phí hết mấy đơn vị.
Ta cũng có thể tính hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tuyệt đối theo công thức:
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tuyệt đối | = | Kết quả thu được từ hoạt động nhập khẩu | Chi phí bỏ ra cho hoạt động nhập khẩu |
1.2.1.3. Doanh thu nhập khẩu
Doanh lợi là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả kinh doanh. Vì vậy, khi nói về hiệu quả kinh tế nói chung hoặc hiệu quả tài chính nói riêng của một đơn vị hoạt động xuất nhập khẩu chúng ta không thể không nói tới doanh lợi.
Doanh lợi biểu hiện dưới hai dạng: số tuyệt đối gọi là khoản doanh lợi (LN) và số tương đối gọi là tỷ suất doanh lợi (LN’).
– Ở dạng số tuyệt đối, doanh lợi của 1 hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hiệu số giữa khoản doanh thu (DT) với khoản chi phí (CP) cho kinh doanh hàng hoá đó của hoạt động kinh doanh đó.
LN = DT – CP
Doanh nghiệp có thể xác định doanh lợi tổng hợp của cả một thương vụ hoặc doanh lợi của một hàng hoá hoặc doanh lợi của một đơn vị ngoại tệ.
- Ở dạng số tương đối: doanh lợi nhập khẩu được thể hiện bằng tỷ suất doanh lợi (LN’). Đó là tỷ số giữa doanh lợi thu về với số chi phí đã bỏ ra kinh doanh hoặc giữa doanh lợi thu về so với doanh thu.
1.2.1.4. Lợi nhuận nhập khẩu
Lợi nhuận nhập khẩu là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh, lợi nhuận là điều kiện tiền đề cho việc duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, là điều kiện để nâng cao mức sống của người lao động. Lợi nhuận nhập khẩu được tính trên cơ sở chi phí và doanh thu nhập khẩu.
Doanh thu nhập khẩu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp thu được thông qua việc bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm.
Chi phí nhập khẩu là những chi phí cần thiết phải bỏ ra trong quá trình nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài về trong một thời kỳ.
Lợi nhuận nhập khẩu được tính theo công thức:
Lợi nhuận nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu – Chi phí nhập khẩu
Ý nghĩa: Thông qua lợi nhuận nhập khẩu là sự chênh lệch giữa doanh thu nhập khẩu và chi phí nhập khẩu khi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh nhập khẩu, chỉ tiêu này cho biết mức độ hiệu quả kinh doanh nhập khẩu mà doanh nghiệp đạt được.
1.2.1.5. Thị trường, thị phần nhập khẩu
Một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường thường theo đuổi rất nhiều mục tiêu. Tuỳ từng thời điểm và vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường mà mục tiêu thường được đặt lên hàng đầu. Song tựu chung lại thì ba mục tiêu cơ bản lâu dài của doanh nghiệp vẫn là: Lợi nhuận, thế lực, an toàn. ba mục tiêu này đều được đo, đánh giá và thực hiện trên thị trường thông qua khả năng tiêu thu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường đó. Do vậy phát triển thị trường là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp đạt được thành công trong kinh doanh
Mặt khác: Thị trường là tấm gương phản chiếu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh việc thực hiện các chính sách, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có đạt hiệu quả hay không. Vì vậy thông qua việc phát triển thị trường doanh nghiệp có thể đánh giá được hoạt động kinh doanh, phát huy tiềm năng, hiệu quả đạt được và điều chỉnh những thiếu sót.
Quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường rất khắc nghiệt, nó đào thải tất cả các doanh nghiệp không theo kịp sự phát triển của thị trường. Và một trong cách hữu hiệu nhất để tránh sự tụt hậu trong cạnh tranh đó là phát triển thị trường. Phát triển thị trường xuất khẩu vừa đảm bảo giữ được thị phần, tăng doanh số ban, tăng lợi nhuận vừa củng cố được uy tín sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Tóm lại: Phát triển là quy luật của mọi hiện tượng, kinh tế, xã hội. Chỉ có phát triển thì doanh nghiệp mới tồn tại vững chắc phù hợp xu hướng chung của nền kinh tế. Phát triển thị trường chính là mục tiêu, chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp .
Biểu đồ1.2: HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÁC DN.
Sản phẩm hiện tại | Sản phẩm mới | |
Thị trường hiện tại của doanh nghiệp | Khai thác tốt thị trường hiện tại | Đưa sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu ở thị trường hiện tại |
Thị trường mới | Xâm nhập mở rộng thị trường mới | Đưa sản phẩm mơí đáp ứng nhu cầu thị trường mới |
Và kết quả đánh giá hiệu quả hoạt động phát triển kinh doanh thường thể hiện trên một số tiêu thức sau: Doanh số bán, thị phần, số lượng khách hàng, số lượng sản phẩm tiêu thụ và các chỉ tiêu tài chính…
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả nhập khẩu
1.2.2.1. Suất sinh lợi trên doanh thu (ROS)
Chỉ tiêu này cho biết, một đồng doanh thu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ ra mối quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận. Đây là 2 yếu tố có quan hệ rất mật thiết với nhau: Doanh thu chỉ ra vai trò, vị thế trên thị trường, còn lợi nhuận chỉ ra chất lượng và hiệu quả cuối cùng của DN. 2 yếu tố này thể hiện vai trò và vị thế của DN. Doanh thu thuần, lợi nhuận sau thuế, tỷ suất sinh lợi trên doanh thu càng lớn thì DN lại càng có vai trò và vị thế cao trên thị trường.
Hệ số ROS = Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần.
1.2.2.2. Suất sinh lợi trên tài sản (ROA)
Hệ số này cho biết một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Hệ số này càng cao thể hiện sự sắp xếp, phân bổ và quản lý tài sản càng hợp lý và hiệu quả. Cụ thể là:
Hệ số ROA = Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
Xem Thêm ==> Hiệu quả kinh doanh tại công ty Capella Center
1.2.2.3. Suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu cho thấy rõ, một đồng vốn chủ sở hữu sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp (DN). Chỉ tiêu này càng cao, các nhà quản trị càng có lợi thế trong việc đi huy động vốn trên thị trường tài chính để hỗ trợ đầu tư vào các kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN.
Ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ và vốn chủ sở hữu dưới mức vốn điều lệ thì hiệu quả kinh doanh thấp, DN sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút vốn. Tuy nhiên, sức sinh lời của vốn chủ sở hữu cao không phải lúc nào cũng thuận lợi, vì có thể là do ảnh hưởng của vốn chủ sở hữu nhỏ, mà vốn chủ sở hữu càng nhỏ thì mức độ mạo hiểm càng lớn.
Hệ số ROE = Lợi nhuận sau thuế/Tổng nguồn vốn
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình nhập khẩu của doanh nghiệp
1.3.1. Các nhân tố môi trường vĩ mô
1.3.1.1. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp như các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu… các chính sách này tạo sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể do đó tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành, vùng kinh tế nhất định. Việc xử lý tốt các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính sách thuế phù hợp với trình độ kinh tế và đảm bảo tính công bằng… đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động rất mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có liên quan.
– Cơ chế quản lý nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép nhập khẩu vào thị trường trong nước trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ phổ biến nhất trong hàng rào thuế quan, dẫn đến tình trạng hạn chế số lượng nhập khẩu và từ đó ảnh hưởng đến giá cả nội địa của hàng hoá. Khi áp dụng hạn ngạch thường dẫn đến độc quyền, giá bán hàng hoá thường cao hơn khi không có hạn ngạch. Vì vậy, nếu tính kết quả thu được từ việc bán một đơn vị hàng hoá thì doanh nghiệp có kết quả cao hơn nhưng nếu xét tổng kết quả kinh doanh thì doanh nghiệp không thu được hiệu quả cao hơn khi không có hạn ngạch.
Việc thay đổi cơ chế nhập khẩu ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp thông qua việc nó ảnh hưởng đến doanh thu họăc chi phí kinh doanh. Điều này liên quan đến khả năng nắm bắt thông tin của doanh nghiệp về chính sách nhập khẩu của Nhà nước. Việc bãi bỏ quy định cấp xét duyệt một số mặt hàng nhập khẩu nào đó có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong giảm chi phí kinh doanh. Như vậy, nắm bắt đầy đủ, kịp thời các thông tin về sự thay đổi cơ chế quản lý nhập khẩu để có sự ứng phó kịp thời có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
– Tỷ giá hối đoái
Trong quá trình kinh doanh nhập khẩu chi phí nhập hàng được tính bằng đồng ngoại tệ, chi phí lưu thông được tính băng cả ngoại tệ lẫn nội tệ. Vì thế tỷ giá hối đoái có tác động ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh: tăng tỷ giá ngoại tệ so với đồng nội tệ sẽ làm cho hoạt động nhập khẩu giảm lợi nhuận do phải dùng nhiều đồng nội tệ hơn để mua hàng làm cho chi phí kinh doanh tăng lên, ngược lại khi tỷ giá này giảm xuống thì nhập khẩu sẽ được lợi do chi phí kinh doanh giảm xuống. Tuy tỷ giá hối đoái là nhân tố khách quan nhưng việc theo dõi sát tình hình tỷ giá hối đoái để kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
– Thuế
Thuế phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, là nghĩa vụ mà các đơn vị kinh doanh phải nép cho Nhà nước, mức thuế suất ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc làm tăng hoặc làm giảm chi phí kinh doanh. Trừ thuế lợi tức thì các loại thuế khác đều là những khoản làm giảm trừ doanh thu do đó lợi nhuận kinh doanh sẽ giảm xuống.
1.3.1.2. Môi trường chính trị, luật pháp và chính phủ
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật,… mọi quy định pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau nên việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là rất quan trọng. Một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả riêng mà còn chú ý đến lợi Ých của các thành viên khác trong xã hội. Môi trường pháp lý đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cạnh tranh nhau một cách lành mạnh, mỗi doanh nghiệp buộc phải chú ý phát triển các nhân tố nội lực, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và khoa học quản trị tiên tiến để tận dụng được các cơ hội bên ngoài nhằm phát triển kinh doanh của mình, tránh những đổ vỡ không cần thiết, có hại cho xã hội.
Tiến hành các hoạt động kinh doanh mọi doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật, kinh doanh trên thị trường quốc tế doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành kinh doanh trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó. Tính nghiêm minh của luật pháp thể hiện trong môi trường kinh doanh thực tế ở mức độ nào cũng tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh cuả mỗi doanh nghiệp. Sẽ chỉ có kết quả và hiệu quả tích cực nếu môi trường kinh doanh mà mọi thành viên đều tuân thủ pháp luật. Nếu ngược lại, nhiều doanh nghiệp sẽ lao vào con đường làm ăn bất chính, trèn lậu thuế, sản xuất hàng giả, gian lận thương mại… làm cho môi trường kinh doanh không còn lành mạnh. Trong môi trường này, nhiều khi kết quả và hiệu qủa kinh doanh không do các yếu tố nội lực từng doanh nghiệp quyết định, dẫn đến những thiệt hại rất lớn về kinh tế và làm xói mòn đạo đức xã hội.
1.3.1.3. Môi trường văn hóa, xã hội
Là yếu tố luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng, có ảnh hưởng lớn tới khách hàng và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là yếu tố hình thành tâm lý, thị hiếu của người tiêu dùng. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần chú ý tới các yếu tố văn hóa xã hội của đối tượng cần nghiên cứu như: tập quán tiêu dùng, niềm tin, dân số, thu nhập, lối sống, tôn giáo… nhằm đưa ra những nhận định chính xác về thị trường. Nền văn hóa phản ánh quan điểm và cách thức sử dụng sản phẩm, văn hóa ảnh hưởng tới quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Biết được các yếu tố văn hóa của từng dân tộc giúp ta đưa ra những đối sách kinh doanh phù hợp.
1.3.1.4. Môi trường khoa học công nghệ
Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin , tạo điều kiện thuận lợi trong việc theo dõi, điều khiển hàng hóa xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia công sản xuất hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng….
1.3.1.5 Môi trường tự nhiên
- Khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải , tới thời gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu….
- Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ. Ví dụ: việc mua bán hàng hóa với các nước có cảng biển có chi phí thấp hơn so với các nước không có cảng biển.
- Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão, động đất…
- Doanh nghiệp cần tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, đây có thể xem là tài sản quý giá của doanh nghiệp. Muốn vậy, phải xem “khách hàng là thượng đế”, phải thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng hơn các đối thủ cạnh tranh. Muốn đạt được điều này doanh nghiệp phải xác định rõ các vấn đề sau:
- + Xác định rõ khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
- + Xác định nhu cầu và hành vi mua hàng của khách hàng bằng cách phân tích các đặc tính của khách hàng thông qua các yếu tố như : yếu tố mang tính điạ lý (vùng, miền…), yếu tố mang tính xã hội, dân số (lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ, thu nhập, tín ngưỡng….); Hoặc phân tích thái độ của khách hàng qua các yếu tố như : yếu tố thuộc về tâm lý (động cơ, thói quen, sở thích, phong cách, cá tính, văn hoá…), yếu tố mang tính hành vi tiêu dùng (tìm kiếm lợi ích, mức độ sử dụng, tính trung thành trong tiêu thụ…).
1.3.2. Các nhân tố môi trường vi mô
1.3.2.1 Nhà cung cấp
Các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, máy móc thiết bị …) của một doanh nghiệp được quyết định bởi các nhà cung cấp. Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Họ có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền của một số nhà cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng… họ có thể tạo ra sức ép lên doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên vật liệu. được cung cấp … Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Để cho quá trình hoạt động của một doanh nghiệp diễn ra một cách thuận lợi, thì các yếu tố đầu vào phải được cung cấp ổn định với một giá cả hợp lý, muốn vậy doanh nghiệp cần phải tạo ra mối quan hệ gắn bó với các nhà cung ứng hoặc tìm nhiều nhà cung ứng khác nhau cho cùng một loại nguồn lực.
1.3.2.2 Khách hàng
Doanh nghiệp cần tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, đây có thể xem là tài sản quý giá của doanh nghiệp. Muốn vậy, phải xem “khách hàng là thượng đế”, phải thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng hơn các đối thủ cạnh tranh. Muốn đạt được điều này doanh nghiệp phải xác định rõ các vấn đề sau:
+ Xác định rõ khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
+ Xác định nhu cầu và hành vi mua hàng của khách hàng bằng cách phân tích các đặc tính của khách hàng thông qua các yếu tố như : yếu tố mang tính điạ lý (vùng, miền…), yếu tố mang tính xã hội, dân số (lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ, thu nhập, tín ngưỡng….); Hoặc phân tích thái độ của khách hàng qua các yếu tố như : yếu tố thuộc về tâm lý (động cơ, thói quen, sở thích, phong cách, cá tính, văn hoá…), yếu tố mang tính hành vi tiêu dùng (tìm kiếm lợi ích, mức độ sử dụng, tính trung thành trong tiêu thụ…).
1.3.2.3 Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn bao gồm các đối thủ tiềm ẩn (sẽ xuất hiện trong tương lai) và các đối thủ mới tham gia thị trường, đây cũng là những đối thủ gây nguy cơ đối với doanh nghiệp. Để đối phó với những đối thủ này, doanh nghiệp cần nâng cao vị thế cạnh tranh của mình, đồng thời sử dụng những hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngòai như : duy trì lợi thế do sản xuất trên quy mô lớn, đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra nguồn tài chính lớn, khả năng chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế trong việc xâm nhập các kênh tiêu thụ, ưu thế về giá thành mà đối thủ không tạo ra được và sự chống trả mạnh mẽ của các đối thủ đã đứng vững.
Khả năng thâm nhập ngành của các đối thú tiềm ẩn cao hay thấp phụ thuộc vào rào cản gia nhập ngành. Rào cản gia nhập ngành là những nghiệp tố mà các đối thủ phải vượt qua đế tham gia hoạt dộng trong một ngành. Nếucác rào cản gia nhập ngành cao thì khả năng thâm nhập của các đổi thủ tiềm ân sẽ thấp và ngược lại.
Các rào cán có thể tiếp cận theo đặc tính của chúng như rào cản kỳ thuật, rào càn tài chính, rào cản thương mại, rào cản về nguồn lực quý hiếm:
Rào cản kỹ thuật: Trường hợp các doanh nghiệp hiện tại trong ngành đang sử dụng các công nghệ hiện đại, các đối thủ tiềm ẩn sẽ phải tiếp cận hoặc trang bị cho mình công nghệ sản xuất tương đương hoặc hiện đại hơn đê có thẻ cạnh tranh thành công. Trường hợp có sự độc quyền về công nghệ hoặc nếu các đối thủ tiềm ấn không có trong tay quyền sử dụng những sáng chế, bí quyết công nghệ thì việc họ tham gia hoạt động trong ngành sẽ khó khăn hơn, đôi khi là không thể thâm nhập được vào ngành.
1.3.2.4 Sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm có thể thỏa mãn cùng một nhu cầu so với sản phẩm hiện tại, đem lại cho người tiêu dùng những tính năng, lợi ích tương đương như sản phẩm của doanh nghiệp.
Vì vậy, sản phẩm thay thế được coi là mối đe dọa đối với hoạt động của doanh nghiệp trong ngành. Những sản phẩm thay thế có tính năng, công dụng đa dạng hơn, chất lượng tốt hơn nhưng giá thấp hơn là những sản phẩm thay thế nguy hiểm. Chúng có thể dẫn đến nguy cơ làm giảm giá bán, giảm số lượng sản phẩm tiêu thụ và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, thậm chí xóa bỏ hoàn toàn các sản phẩm hiện tại. Những sản phẩm thay thế thường là kết quả của việc cải tiến công nghệ hoặc công nghệ mới. Doanh nghiệp cần phải theo dõi xu hướng phát triển của các sản phẩm thay thế để nhận diện hết nguy cơ do sản phẩm thay thế gây ra.
Sức ép do có sản phẩm thay thế sẽ làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của cuộc cách mạng công nghệ. Do đó doanh nghiệp cần chú ý và phân tích đến các sản phẩm thay thể để có các biện pháp dự phòng.
1.3.2.5. Các ngành công nghiệp phụ trợ
Các nhà buôn ( bán sỉ và lẻ ), đại lý, môi giới. Các trung gian phân phối tạo nên sự tiện lợi về địa điểm ( tồn trữ sản phẩm gần nơi khách hàng cư trú tạo nên sự sẳn có cho việc mua sắm), tiện lợi về thời gian (bằng cách mở cửa nhiều giờ hơn để khách hàng mua thuận tiện ), tiện lợi về chủng loại ( chuyên môn hóa cửa hàng hay sắp xếp, bố trí các quầy bày sản phẩm tiện cho việc lựa chọn của người mua ), tiện lợi về sở hữu ( bằng cách chuyển sản phẩm đến khách hàng theo các hình thức thanh toán dễ dàng như trả bằng thẻ tín dụng ).
1.3.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.3.3.1. Nguồn nhân lực và năng lực quản trị
Lao động là nhân tố sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, số lượng và chất lượng lao động là yếu tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở các chỉ tiêu năng suất lao động, mức sinh lợi của lao động và hiệu suất tiền lương. Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Lực lượng lao động tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu…) nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm (dịch vụ) rất cao. Đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng tinh nhuệ, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp tràn lan thiết bị hiện đại của nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất cao lại vừa tốn kém tiền của cho hoạt động sửa chữa, kết quả là hiệu quả kinh doanh rất thấp.
1.3.3.2. Tiềm lực tài chính
Đây là nhân tố quan trọng thường xuyên, trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Do vậy, doanh nghiệp phải chú trọng ngay từ việc hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh để làm cơ sở cho việc lùa chọn các phương án sử dụng vốn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực hiện có, tổ chức chu chuyển tái tạo và bảo toàn vốn. Đồng thời khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu doanh nghiệp cần phải chú trọng việc nghiên cứu biến động của thị trường tiền tệ đặc biệt là sự biến động của ngoại tệ mạnh như USD, JPY, DM…
Càng ngày nhân tố quản lý càng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý doanh nghiệp chú trọng đến việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn trong môi trường kinh doanh ngày cành biến động. Chất lượng chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, hiệu quả kinh doanh cao hay thất bại, kinh doanh phi hiệu quả của doanh nghiệp. Định hướng đúng là cơ sở để đảm bảo hiệu quả lâu dài của doanh nghiệp.
Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh, lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng để đảm bảo cho mét doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng quản trị doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, quản lý doanh nghiệp khai thác và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất, chất lượng của hoạt động này cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của mỗi thời kỳ.
Đội ngò các nhà quản lý mà đặc biệt là các nhà quản lý cao cấp, lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp ở mọi doanh nghiệp, kết quả và hiệu quả hoạt động của quản lý đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngò cán bộ này cũng như của bộ máy quản lý.
1.3.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động. Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển của công cụ lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Như thế, cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng tăng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh. Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật cơ cấu, tính đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lượng công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị…
Nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay có cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật còn hết sức yếu kém: máy móc thiết bị vừa lạc hậu, vừa không đồng bộ. Đồng thời, trong những năm qua việc quản lý, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng không được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không sử dụng và phát huy hết năng lực hiện có của mình. Thực tế trong những năm qua cho thấy doanh nghiệp nào được chuyển giao công nghệ sản xuất và hệ thống thiết bị hiện đại, làm chủ được yếu tố kỹ thuật thì phát triển được sản xuất kinh doanh, đạt đựơc kết quả và hiệu quả kinh doanh cao, tạo được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp cùng ngành và có khả năng phát triển. Ngược lại, những doanh nghiệp nào vẫn sử dông công nghệ, thiết bị cũ hoặc được chuyển giao công nghệ lạc hậu không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng đòi hỏi của thị trường về cả chất lượng và giá cả nên sản xuất ở doanh nghiệp đó thường bị chững lại, đi xuống và trong nhiều trường hợp có thể nhìn thấy trước sự đóng cửa sản xuất kinh doanh không hiệu quả.
Ngày nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn hơn và ngày càng hiện đại hơn, đóng vai trò ngày càng to lớn, mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm được giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại để tiến tới chỗ ứng dụng kỹ thuật ngày càng tiên tiến, sáng tạo công nghệ kỹ thuật mới,… làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.3.4. Chiến lược Marketing
Sau khi đã có được những thông tin , số liệu cần thiết thông qua việc nghiên cứu thị trường và lựa chọn phương thức giao dịch, thì người làm Marketing nhập khẩu cần phải lập kế hoạch Marketing với nội dung khái quát như sau:
– Trên cơ sở kế hoạch chung và quan điểm của Marketing, công ty cần hình thành mối quan hệ giữa chiến lược và chiến thuật, cũng như các quyết định Marketing nhập khẩu, đoạn thị trường trung tâm, cách thức hoạt động, lựa chọn sản phẩm nhập khẩu của các thị trường, tiến hành quảng cáo sản phẩm.
– Lập kế hoạch và kiểm tra là hai khâu của nội dung tổ chức thực hiện. Lập kế hoạch gồm kế hoạch chiến lược và kế hoạch Marketing, kế hoạch chiến lược sẽ chỉ ra những định hướng cơ bản, những chỉ tiêu tổng hợp khái quát để xây dựng chỉ tiêu (doanh nghiệp đề ra những chỉ tiêu, biện pháp cụ thể…) kiểm tra là lượng hoá và phân tích các kết quả đã đạt được, trong khuôn khổ các kế hoạch chiến lược Marketing đồng thời tiến hành những sự điều chỉnh cần thiết phù hợp với sự biến động của thị trường trên cơ sở phân tích đánh giá những hiện tượng thực tế phát sinh.
Triển khai chiến lược Marketing nhập khẩu trước hết là đề ra mục tiêu của việc xâm nhập mở rộng thị trường nhập khẩu từng đợt, tiếp theo là kế hoạch hoá các yếu tố Marketing-mix. Sản phẩm giá cả, phân phối giao tiếp khuyếch trương. Cuối cùng nhà nhập khẩu sẽ phải lựa chọn được một phương án tối ưu nhất và tiến hành thực hiện.
1.3.3.5. Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
Chất lượng của các nỗ lực nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp có thể giúp doanh nghiệp giữ vững vị trí đi đầu trong ngành hoặc ngược lại, làm cho doanh nghiệp tụt hậu so với các doanh nghiệp đầu ngành trong các lĩnh vực như phát triển sản phẩm mới, chất lượng sản phẩm; kiểm soát giá thành và công nghệ sản xuất. Trình độ, kinh nghiệm và năng lực khoa học chưa đủ cho công tác nghiên cứu phát triển tốt. Bộ phận chức năng về nghiên cứu và phát triển phải thường xuyên theo dõi về đổi mới công nghệ liên quan đến quy trình công nghệ, sản phẩm và nguyên vật liệu. Sự trao đổi thông tin một cách hữu hiệu giữa các bộ phận nghiên cứu phát triển và các lĩnh vực hoạt động khác, cụ thể là marketinh có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp.
Trên đây là mẫu Cơ sở lý luận về hoạt động nhập khẩu linh kiện phụ tùng xe ô tô của doanh nghiệp được chia sẻ miễn phí, các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây. Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên, nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149