Hoàn Thiện Cơ Chế Pháp Lý Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai

Rate this post

Download miễn phí chuyên đề tốt nghiệp: Hoàn Thiện Cơ Chế Pháp Lý Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai dành cho các bạn sinh viên đang làm báo cáo tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp đề tài về Hoàn Thiện Cơ Chế Pháp Lý Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai  được kham khảo từ bài chuyên đề  tốt nghiệp đạt điểm cao hy vọng giúp cho các bạn khóa sau có thêm tài liệu hay để làm bài báo cáo thực tập của mình 

Các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong quá trình làm báo cáo thực tập, chuyên đề tốt nghiệp , nếu cần sự hỗ trợ dịch vụ viết bài trọn gói , chất lượng các bạn liên hệ qua SDT/Zalo :0973287149


ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO THỰC TẬP: HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP  ĐẤT ĐAI

Đất đai là tài nguyên đặc biệt. Trong nền kinh tế thị trường, người ta coi đất đai là hàng hoá đặc biệt. Câu nói “tấc đất, tấc vàng” nói lên sự quý giá ở tầm mức cao nhất của đất đai thực ra cũng không đủ. Nếu nói dưới góc độ giá trị lịch sử – xã hội : “mỗi tấc đất đều nhuốm máu cha ông”; đất đai là “giang sơn gấm vóc” thì sự thiêng liêng, quý giá ấy khó lấy thước đo nào mà định giá.

Trong quá trình vận động của xã hội, nhất là trong nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề bức xúc xảy ra hàng ngày. Trong đó đứng đầu là vấn đề tranh chấp đất đai. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là  người dân không có thói quen cắm cột mốc, quá trình sử dụng bị sai lệch hoặc chuyển nhượng, tặng cho không làm đầy đủ các thủ tục cần thiết, hợp lệ.

Hệ thống hồ sơ địa chính, đặc biệt là bản đồ địa chính chính quy chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thống nhất, độ chính xác và tin cậy không cao nên gây ra những khó khăn rất lớn cho các cấp chính quyền địa phương trong thực thi thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Nhiều vấn đề lịch sử để lại chưa được giải quyết dứt điểm và kịp thời như việc xác định nguồn gốc, mốc giới, thời hạn, mục đích, quy chủ sử dụng đất đã nảy sinh nhiều bức xúc. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các cơ quan chức năng gặp không ít khó khăn khi tìm chứng cứ để xác định tính khách quan của vụ việc, thậm chí có nhiều trường hợp phải suy đoán theo lập luận của các bên. Từ đó, xảy ra nhiều tình trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài, thưa gửi nhiều nơi và qua nhiều cấp giải quyết mà các bên vẫn khiếu nại.

Giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là một trong những nội dung của công tác quản lý Nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai. Thực hiện tốt nội dung này không những góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai, mà còn góp phần đáng kể trong việc giữ gìn ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, hàn gắn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn an ninh, trật tự và ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể xảy ra, đảm bảo trật tự xã hội cũng như củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Trong những năm qua, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại trên lĩnh vực đất đai đã có nhiều chuyển biến tích cực, giải quyết được một khối lượng lớn vụ việc, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững an ninh, trật tự xã hội. Tuy nhiên, tình hình tranh chấp, khiếu nại có liên quan đến đất đai hiện nay vẫn còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đây là một vấn đề nhức nhối đang được Đảng và Nhà nước, xã hội rất quan tâm.

Việc nhận thức và vận dụng pháp luật không đúng, không thống nhất, thậm chí sai phạm dẫn đến khiếu nại, tố cáo nhiều, công tác quản lý nhà nước các cấp phải tập trung quá nhiều lực lượng, kinh phí để giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, gây tốn kém, mất thời gian. Có sự việc nhỏ chỉ cần giải quyết ở cấp cơ sở là xong, nhưng thực tế việc hiểu biết và vận dụng pháp luật của một số cán bộ còn chưa đúng, chưa phù hợp đã làm cho sự việc phức tạp thêm, kéo dài thời gian, tạo ra nhiều dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân.

Với nhận thức tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp về đất đai trong quản lý nhà nước về đất đai, niên luận đi vào đề tài: “ hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp  đất đai “.

Vì thời gian và kiến thức còn hạn chế, niên luận không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của các Thầy, Cô giáo và các học viên. Tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp tận tình đó, tạo điều kiện cho tôi nhận thức được đầy đủ hơn và hoàn thành tốt niên luận này.

  1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài báo cáo thực tập:

Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là những năm gần đây tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất, nhất là ở những vùng  đô thị hóa . Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến trong thực tế là: tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất; tranh chấp do lấn, chiếm đất; tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; tranh chấp đất đai trong các vụ án ly hôn… Có thể liệt kê rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai như: Việc quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót, sơ hở; việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) tiến hành chậm; việc lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng không được ngăn chặn và xử lý kịp thời; đất đai từ chỗ chưa được thừa nhận có giá trị nay trở thành tài sản có giá trị cao, thậm chí ở nhiều nơi, nhiều lúc giá đất tăng đột biến…

Nhà nước ta đã rất cố gắng trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai nhằm ổn định tình hình chính trị, xã hội. Hệ thống các văn bản pháp luật đất đai ngày càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó quy định việc giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân (UBND) và Tòa án nhân dân (TAND) (các Điều 21, 22 Luật Đất đai năm 1987; Điều 38 của Luật Đất đai năm 1993; Điều 136 Luật Đất đai năm 2003). Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mới chỉ “dừng lại” ở mức độ chung chung, nên trên thực tế dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa UBND và TAND. Khắc phục những nhược điểm này, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tương đối cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng giải quyết các tranh chấp đất đai có hiệu quả hơn.

Chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thay đổi tương
thích với từng giai đoạn phát triển của cách mạng, song bên cạnh đó còn nhiều quy định không nhất quán. Hơn nữa, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa đầy đủ và kịp thời. Do đó, tình hình giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan hành chính và TAND trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa không thống nhất. Có nhiều vụ phải xử đi, xử lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, phát sinh khiếu kiện kéo dài và làm giảm lòng tin của người dân đối với đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có thể khẳng định rằng, việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay là loại việc khó khăn, phức tạp nhất và là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về đất đai, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai; thực trạng tranh chấp đất đai và việc giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan có thẩm quyền  trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai và xác lập cơ chế giải quyết các tranh chấp đất đai thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay. Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề ” hoàn thiện cơ chế pháp lý về Giải quyết tranh chấp đất đai” ở thị xã Tân Uyên-Bình Dương làm đề tài  niên luận môn luật học của mình.

  1. Mục đích và nghĩa vụ nghiên cứu

– Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là phân tích, đánh giá thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai ở nước ta, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và cơ chế áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn các tranh chấp đất đai.

– Để đạt được mục đích này, tiểu luận có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định của pháp luật đất đai liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất đai, thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai ở thị xã Tân Uyên. Trên cơ sở đó chỉ ra những thiếu sót, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn hiện pháp luật đất đai, nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp đất đai, phúc đáp các đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI.

  1. Phương pháp nghiên cứu

– Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết niên luận  sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, trao đổi chuyên gia.

  1. Ý nghĩa của các kết quả nghiên cứu

Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng ở nước ta.

  1. Kết cấu của đề tài báo cáo thực tập:

Ngoài các phần Mở đầu và phần kết  niên luận có 2 chương:

  • Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai
  • Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai.

PHẦN MỞ ĐẦU                                                                                                             

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai                                                                                              1.1 Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai                                   

  •             1.1.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai                                            
  •             1.1.2 Đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai                                              

1.2. Vai trò giải quyết tranh chấp đất đai                                                          

1.3. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai                               

Chương 2: Thực trạng  giải quyết tranh chấp đất đai tại thi xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyếttranh chấp đất đai.                                     

2.1. Vị trí địa lý                                                                                                        

  •             2.1.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp  đất đai  tại  địa phương thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương.                                                                              13
  •             2.1.2. Kết quả đạt được                                                                                     
  •             2.1.3. Những hạn chế                                                                                         
  •             2.1.4. Nguyên Nhân                                                                                           

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai                                                                                                                    

  •             2.2. 1. Sự cần thiết phải điều chỉnh các tranh chấp đất đai bằng pháp luật                                                                                                                          
  •             2.2.2 Giải pháp                                                                                                  

PHẦN KẾT             

Xem Thêm Chương 1 ==> Khái niệm, đặc điểm pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai                                                                                                                                                                                         


Chương 2 : THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI THỊ XÃ TÂN UYÊN TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

2.1 Vị trí địa lý

Nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Bình Dương, với 12 xã – phường, bao gồm 06 phường: Uyên Hưng, Tân Phước Khánh, Thái Hòa, Thạnh Phước, Tân Hiệp, Khánh Bình và 06 xã: Hội Nghĩa, Vĩnh Tân, Phú Chánh, Tân Vĩnh Hiệp, Thạnh Hội, Bạch Đằng. Thị xã Tân Uyên nối liền với các huyện, thị, thành phố đang phát triển của tỉnh Bình Dương như Thuận An, Dĩ An, thành phố Thủ Dầu Một, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo; tiếp giáp với huyện Vĩnh Cữu, tỉnh Đồng Nai. Tài nguyên thiên nhiên không phong phú, đa dạng, nhưng với vị trí, địa lý đặc biệt, thị xã Tân Uyên trở thành địa bàn quan trọng của Tỉnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, xã hội. (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

2.1.1 Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai  tại  địa phương thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương.

Thực trạng của việc giải quyết tranh chấp về đất đai

  1. Đặc điểm tình hình:

   Địa phương là vùng kinh tế mới có diện tích đất rộng (19.175,72 ha), thành phần kinh tế chủ yếu của xã là sản xuất nông nghiệp, hàng năm địa phương thu hút nhiều thành phần dân cư từ nơi khác đến lập nghiệp làm ăn sinh sống. Cho nên địa phương thường xuyên xảy ra tranh chấp, khiếu nại của nhân dân. Trong năm 2017, số lượng đơn thư khiếu nại, tranh chấp tăng hơn năm 2016, không có đơn phức tạp, khiếu nại đông người. Nội dung của các đơn chủ yếu là tranh chấp ranh đất, tranh chấp lối đi, tranh chấp dân sự, ly hôn và mâu thuẫn gia đình….

  1. Tiếp công dân:

   – Tổng số cuộc tiếp dân trong năm: 57 cuộc với 17 lượt người. Trong đó:

   +  Lãnh đạo tiếp dân: 23 cuộc, với 08 lượt người.

   +  Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND tiếp dân: 30 cuộc, với 9 lượt người.

   – Tiếp dân thường xuyên: 85 cuộc, 32 lượt người.

  1. Xử lý đơn thư:

   Sau khi phòng tiếp dân nhận được đơn thư của tổ chức, công dân. Cán bộ tiếp dân ghi nhận đơn thư sau đó phân loại đơn thuộc ngành nào chuyển giao ngành đó tham mưu chủ tịch UBND đưa ra HĐHG xã giải quyết. Tổng số đơn thư nhận được là 33 đơn.

Xem Thêm ==>Dịch vụ viết chuyên đề thực tập , điểm cao 

   4 . Kết quả hoạt động của Tổ hòa giải cơ sở:

   – Hoạt động của các tổ hòa giải:

   +  Tổng số tổ hòa giải: 8

   +  Tổng số thành viên tổ hòa giải: 64

   + Tổng số vụ việc khiếu nại, tranh chấp các tổ đã nhận: 16

    + Tổng số vụ việc đã đưa ra thụ lý hòa giải: 16/16 Đạt tỷ lệ: 100%/ tổng số vụ, việc đã nhận.

   + Số vụ việc hòa giải thành:  8/16 đạt tỷ lệ 50 % tổng số vụ việc đưa ra hòa giải. (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

   + Số vụ việc hòa giải không thành chuyển về xã, phường: 08

   +  Số vụ, việc chưa giải quyết: 0

   – Hoạt động của hội đồng hòa giải:

   + Tổng số thành viên Hội đồng hòa giải: 13

   + Tổng số vụ việc khiếu nại, tranh chấp Hội đồng hòa giải đã nhận: 33 đơn trong đó: năm trước chuyển sang: 0, tổ hòa giải chuyển lên: 08, nhận mới: 25

   + Tổng số vụ việc đã đưa ra xác minh, hòa giải (trả lời công văn): 33/33 Đạt tỷ lệ: 100%/ tổng số vụ, việc đã nhận. Trong đó:

   + Số vụ việc hòa giải thành, rút đơn: 24/31 đạt tỷ lệ 77,41 % tổng số vụ việc đưa ra hòa giải.

   + Số vụ việc hòa giải không thành chuyển: 07

   + Tòa án: 07

   + UBND thị xã: không

   + Ban hành công văn trả lời: 02

   + Tồn: 0

   – Nội dung:

  • Tranh chấp ranh đất, tranh chấp lối đi: 17
  • Hôn nhân gia đình: 02
  • Tranh chấp dân sự: 14

   – Tổng số đơn các tổ hòa giải, hội đồng hòa giải đã nhận là 41 đơn, trong đó:

  • Hòa giải thành (rút đơn, trả lời công văn): 34/41 đơn, đạt 82,92 %
  • Hòa giải không thành: 07 đơn
  • Tồn: 0
  • Trong quá trình giải quyết khiếu nại tố cáo HĐHG xã đã phân tích để người dân thấu tình, đạt lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân. Từ đó tạo được niềm tin trong nhân dân, để từ đó người dân tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

2.1.2. Kết quả đạt được:

Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư KNTC của công dân luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng ủy, chỉ đạo thường xuyên của UBND trong năm 2017, số lương đơn thư tăng so với cùng kỳ (01 đơn), tỉ lệ hòa giải thành tương đối cao, đa số đơn thư đều được giải quyết đúng thời gian quy định.

UBND thị xã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thời gian để tiếp nhận xữ lí và giải quyết đơn. Cấp ủy và UBND luôn giám sát chỉ đạo Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai cùng Ban ngành có liên quan phối hợp với các đoàn thể tham gia thực hiện tốt việc xác minh, kịp thời giải quyết dứt điểm các đơn thư. Hàng tuần đều có Lãnh đạo trực tiếp tiếp dân từ đó nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, yêu cầu chính đáng của người dân, để từ đó có hướng chỉ đạo cho UBND giải quyết kịp thời và dứt điểm các yêu cầu, kiến nghị mà người dân phản ánh.

Do đa số dân địa phương là dân nhập cư từ các nơi khác đến. Cho nên khi hòa giải một số đơn do nguyên đơn hoặc bị đơn ở ngoài địa phương như: TPHCM, Đồng nai và các tỉnh phía bắc…, nên khi địa phương gởi giấy mời cho đương sự để tiến hành hòa giải thì đương sự thường hay vắng mặt do không nhận được giấy mời hoặc nhận trễ… do đó có một số đơn không thể tiến hành hòa giải đúng thời gian luật định.

Các diện tích đất tại địa phương sai lệch diện tích còn khá nhiều do đó thường hay phát sinh các đơn tranh chấp về lối đi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (HĐCN-QSDĐ).

Tỉ lệ hòa giải thành ở tổ hòa giải có chiều hướng giảm. Do số đơn ly hôn và các đơn tranh chấp có tính chất phức tạp (đối với tổ HG) tăng cao đã phần nào ảnh hưởng đến tỉ lệ hòa giải thành của các tổ hòa giải.

2.1.3. Những hạn chế (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

 Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng Ủy Nhà nước và UBND thị xã, hệ thống của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết  tranh chấp về đất đai của công dân, giải quyết được đơn thư khiếu nại của công dân, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Tuy vậy, việc giải quyết  tranh chấp về đất đai còn những hạn chế:

Về lãnh đạo, chỉ đạo:

Chưa huy động được vai trò của các tổ chức quần chúng, chưa phát hiện giải quyết kịp thời, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu thống nhất, tập trung, chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế của địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề xã hội phát sinh từ vấn đề thu hồi đất như: tái định cư, đời sống, việc làm, nghề nghiệp…

Công tác hòa giải cấp xã, phường chưa được quan tâm đúng mức,  địa phương không bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả chưa cao. Cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp về đất đai còn yếu kém về năng lực.

Việc giải quyết đơn thư  tranh chấp đất đai còn mang nặng về mệnh lệnh hành chính, nhiều quyết định giải quyết chưa thấu tình đạt lý.

Việc tổ chức thực hiện quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, dẫn đến vụ việc không được giải quyết dứt điểm, khiếu kiện kéo dài.

Hình thức văn bản giải quyết một số vụ việc chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật như việc ban hành công văn, thông báo… để thay thế quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.

         – Phân công trách nhiệm quản lý và tham mưu giải quyết

UBND xã có thẩm quyền giải quyết  tranh chấp về đất đai chưa được phân công nhiệm vụ rành mạch. Việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân dân xã giải quyết  tranh chấp về đất đai cũng không thống nhất:  ở cấp thị xã có nơi giao cho Thanh tra huyện, có nơi giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường.

Hiện nay, việc thẩm tra, xác minh kết luận, kiến nghị việc giải quyết các khiếu nại về đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp không giao cho ngành Tài nguyên và Môi trường.

Tình trạng nêu trên đã tăng thêm khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp về đất đai của công dân và lúng túng trong việc xác định thẩm quyền tham mưu giải quyết.

Về công tác quản lý đất đai:

Việc thực hiện không triệt để các quy định của pháp luật đất đai ở cấp xã làm cho hồ sơ địa chính không đồng bộ, sổ sách, bản đồ, tư liệu thiếu; trước đây, việc ban hành các văn bản về quy hoạch đất đai chậm, thiếu các văn bản về hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm dẫn đến công tác quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai gặp nhiều khó khăn.

Công tác lưu trữ tư liệu địa chính chưa tốt nên việc tra cứu gặp nhiều khó khăn.

Công tác quản lý đất đai ở UBND xã chưa được quan tâm đúng mức, đối với cấp huyện, xã là nơi trực tiếp với người dân thì trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế, cơ cấu, tổ chức hay bị thay đổi. (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

Về chính sách, pháp luật:

  Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai hiện nay có hai con đường: một là UBND xã, phường  giải quyết, hai là Toà án (Toà Dân sự hoặc Toà Hành chính), tuy nhiên về bản chất đều phải xem xét về quyền sử dụng đất, nhưng việc áp dụng pháp luật để giải quyết cũng có khác nhau trong việc giải quyết cùng một vụ việc giữa UBND xã, phường và Toà án (Công văn số 169/2002/KHXX ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn Toà án nhân dân các cấp về đường lối giải quyết các khiếu kiện, tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng). Việc hướng dẫn thẩm quyền giải quyết giữa UBND xã và Toà án còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng dẫn đến tình trạng đùn đẩy giải quyết giữa Toà án và UBND xã.

2.1.4. Nguyên Nhân

– Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc giải quyết tranh chấp về đất đai hiện nay còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục trong thời gian đến.

   + Tổng số vụ việc khiếu nại, tranh chấp các tổ đã nhận: 16

   + Tổng số vụ việc đã đưa ra thụ lý hòa giải: 16/16 Đạt tỷ lệ: 100%/ tổng số vụ, việc đã nhận.

   + Số vụ việc hòa giải thành:  8/16 đạt tỷ lệ 50 % tổng số vụ việc đưa ra hòa giải.

   + Số vụ việc hòa giải không thành chuyển về xã: 08

   + Số vụ, việc chưa giải quyết: 0.

– Tình trạng giải quyết chưa hợp lý, thỏa đáng dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, phức tạp, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, đình trệ đến sản xuất kinh doanh… Sở dĩ có sự tồn tại trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể nêu ra những nguyên nhân chủ yếu sau:

   Thứ nhất: Do điều kiện lịch sử về đất đai cũng như những điều kiện về xã hội tác động mà việc tranh chấp, khiếu kiện ngày càng nhiều với tính chất phức tạp. Tranh chấp, khiếu kiện về đất đai thường dai dẳng, nhân dân ta có câu: “Nhất hộ hôn, nhì điền thổ, vạn cổ tri thù”.

   Thứ hai: Do chính sách, pháp luật về đất đai của Nhà nước ta còn nhiều bất cập,chưa phù hợp với thực tiễn vốn rất sinh động

   Thứ ba: Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước cũng như của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại hiện nay còn nhiều yếu kém. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ tha hóa, biến chất lợi dụng chức vụ, quyền hạn, kẽ hở của chính sách, pháp luật để trục lợi, vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai.

Xem Thêm ==> 99+ chuyên đề tốt nghiệp ngành Luật 

   Thứ tư: Nguyên nhân chủ yếu, cốt lõi dẫn đến sự tồn tại trên là do chúng ta chưa có cơ chế giải quyết tranh chấp về đất đai phù hợp. Đây là nguyên nhân mà chúng ta cần khắc phục, đặc biệt là việc xây dựng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai.

         – Sự bất cập, chưa phù hợp thể hiện ở những điểm sau:

   Thứ nhất: thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã bị xem nhẹ, từ đó số vụ tranh chấp đất đai mà cơ quan UBND và TAND phải thụ lý giải quyết nhiều.

   Thứ hai:  pháp luật quy định những tranh chấp quyền sử dụng đất mà người sử dụng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền UBND, tranh chấp quyền sử dụng mà người sử dụng có giấy chứng nhận quyền sử dụng thuộc thẩm quyền của TAND. Trên thực tế việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn rất hạn chế, đặc biệt đối với đất lâm nghiệp (chỉ đạt 35% tổng diện tích đất đã giao sử dụng). Do đó số vụ việc tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND còn cao. (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

– Những lý do trên dẫn đến tình trạng quá tải của cơ quan hành chính nhà nước
nói chung cũng như của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương nói riêng.

– Xu hướng vận động của tình hình tranh chấp về đất đai trong thời gian tới

– Trước sự vận động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất đai hiện nay là tài nguyên vô cùng quan trọng trong sản xuất và kinh doanh. Vấn đề đất đai hiện nay là vấn đề hết sức nhạy cảm, có khả năng dẫn đến việc tranh chấp, khiếu kiện ngày càng nhiều và theo chiều hướng ngày càng phức tạp nếu như chúng ta không tìm được giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Vấn đề này đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải quan tâm hơn nữa, thực hiện quyết liệt hơn nữa việc tìm ra giải pháp hữu hiệu để quản lý, trong đó yêu cầu đòi hỏi có tính quyết định là phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai.

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

 Trước thực trạng và nguyên nhân trên đây, để lập lại trật tự, kỷ cương trong việc khiếu nại, tố cáo và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp trên lĩnh vực đất đai cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

a) Quán triệt những nguyên tắc chung

   Khi giải quyết tranh chấp về đất đai phải quán triệt các nguyên tắc sau:

   – Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nứơc thống nhất quản lý; Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng cho công dân; Nhà nước có quyền thu hồi đất và người sử dụng đất được đền bù theo quy định của pháp luật.

   – Trong quá trình Cách mạng, theo tình hình cụ thể mà Đảng và Nhà nước có các chủ trương, chính sách đất đai phù hợp. Vì vậy giải quyết tranh chấp phải căn cứ vào thời điểm phát sinh của vụ việc và chính sách tương ứng của thời kỳ đó.

   – Giải quyết các tranh chấp đất đai trên cơ sở tôn trọng quá trình sử dụng ổn định của các chủ sử dụng đất, không giũ rối, kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng và lợi ích của người sử dụng đất, đồng thời phải tôn trọng quy hoạch sử dụng đất của chính quyền địa phương.

   – Khi giải quyết tranh chấp về đất đai nếu phát sinh những vấn đề về kinh tế, lợi ích vật chất … cần phải đảm bảo lợi ích Nhà nước và quan tâm thích đáng lợi ích của người sử dụng đất .

b) Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp về đất đai (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

Về mô hình tổ chức: Mô hình tổ chức bộ máy giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai ở cơ chế giải quyết bằng con đường hành chính nhà nước và bằng con đường tư pháp vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi trách nhiệm của người đứng đầu (là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại) tại các cơ quan hành chính nhà nước còn chưa cao, bộ máy tham mưu giải quyết của hệ thống cơ quan này cũng còn chưa chặt chẽ, thiếu chuyên nghiệp, thì bộ máy của Tòa án nhân dân cũng có bất cập do được tổ chức theo cấp hành chính, nên trong hoạt động còn khó bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử vì bị ảnh hưởng bởi cấp ủy và chính quyền địa phương.

Về trình tự, thủ tục giải quyết: Cả thủ tục giải quyết bằng con đường hành chính và con đường tư pháp cũng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải được tiếp tục khắc phục, hoàn thiện, cụ thể như: Thủ tục giải quyết bởi cơ quan hành chính nhà nước còn mang “tính khép kín”, thực tế phát sinh những trường hợp cần phải xem xét lại, kể cả khi đã có bản án có hiệu lực của Tòa án, nhưng lại không có quy định về những trường hợp này; thủ tục tư pháp khắc phục được hạn chế trên của thủ tục hành chính nhưng lại có nhược điểm là rườm rà, kéo dài thời gian, nhiều trường hợp gây bức xúc trong dư luận.

Về yếu tố con người: Nguồn nhân sự giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai còn nhiều hạn chế. Trong cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và hệ thống cơ quan Tòa án, nguồn nhân sự giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai có nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Ở nhiều địa phương, trong bộ máy tham mưu giải quyết khiếu nại về đất đai còn thiếu những cán bộ, công chức vừa có chuyên môn về lĩnh vực đất đai, lại vừa có chuyên môn, kỹ năng về giải quyết khiếu nại hành chính. Đối với Ngành Tòa án, số lượng thẩm phán hành chính còn mỏng và số thẩm phán đáp ứng được các yêu cầu vừa có năng lực chuyên môn như những thẩm phán khác, lại phải vừa có trình độ chuyên sâu trong công tác quản lý nhà nước về đất đai còn ít hơn. Những hạn chế về nguồn nhân lực này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả điều chỉnh pháp luật giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai.

2.2. 1. Sự cần thiết phải điều chỉnh các tranh chấp đất đai bằng pháp luật

Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xét xử các khiếu nại quyết định hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai. Cụ thể đối với quy định về quyền khiếu nại (lần 2) tại Điều 46 Luật Khiếu nại, tố cáo ( luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 29/11/2005) có nêu: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 43 của Luật Khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án…”. Tuy nhiên, theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (năm 2006) thì tại Khoản 2 quy định: “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ”… (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

– Như vậy, về thủ tục quy định quyền khiếu nại, khiếu kiện đã có sự mâu thuẫn giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Đây là một thực tế có xung đột pháp luật đã và đang diễn ra làm hạn chế quyền khiếu kiện của công dân, tổ chức.

   – Bộ Tài nguyên-Môi trường và Tổng Thanh tra cần có bảng tổng kết hàng năm một số vụ giải quyết tranh chấp, khiếu nại điểm, nêu các cách làm hay của một số tỉnh thành điển hình để UBND các xã rút kinh nghiệm. Đặc biệt cập nhật ngay các văn bản pháp luật còn hiệu lực thi hành, không còn hiệu lực thi hành để làm căn cứ cho UBND các xã giải quyết tranh chấp, khiếu nại.

– Phối hợp ngành Tòa án tổ chức hội thảo về các vi phạm trong các quyết định hành chính về hình thức lẫn nội dung để rút kinh nghiệm cho công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, ban hành các quyết định giải quyết khiếu nại đúng pháp luật. (Mẫu hóa hình thức các quyết định giải quyết khiếu nại để không bị cơ quan xét xử tuyên hủy do vi phạm về hình thức trong các vụ kiện hành chính tại Tòa án).

– Giải quyết các vụ tranh chấp đất đai phải khách quan, dân chủ, đúng pháp luật. Muốn vậy, cần nâng cao phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ nhất là kiến thức pháp luật về đất đai…cho cán bộ làm công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo để thực hiện tốt công tác tham mưu, đề xuất giải quyết vụ việc.

– Tăng cường trách nhiệm và vai trò của chính quyền cơ sở trong việc thực hiện Pháp lệnh Hòa giải ở cơ sở. Cần chú ý đề cao biện pháp hướng dẫn, thuyết phục cũng như các cách thức, phương pháp khác của hoạt động hoà giải cơ sở. Thường xuyên kiểm tra để kịp thời ngăn chặn và giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai ngay từ cơ sở và khi mới phát sinh. Cần lưu ý rằng, trong mọi trường hợp việc giải quyết tranh chấp đất đai không dẫn đến một khiếu nại hành chính.

– Kiểm tra việc khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm các nội dung kết luận của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Kết quả giải quyết các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp đơn thư tồn đọng mới phát sinh.

– Thường xuyên tổ chức các cuộc thanh tra về trách nhiệm Thủ trưởng trong cơ quan hành chính, nhằm kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm trong việc thực hiện công vụ của cán bộ, công chức có trách nhiệm. Kiểm tra việc chấn chỉnh về tổ chức và tăng cường cơ sở vật chất cho công tác tiếp công dân, tổ hòa giải ở cơ sở, Ban Thanh tra nhân dân… công tác đôn đốc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của thủ trưởng các cấp các ngành; công tác tuyên truyền việc phổ biến giáo dục pháp luật có liên quan đến giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, nhất là việc thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở theo Nghị định 79.

– Rà soát toàn bộ các công văn chỉ đạo của UBND tỉnh chưa được thực hiện, chậm thực hiện. Tình trạng kỉ luật hành chính bị buông lỏng, bệnh nể nang còn nặng nề, thái độ điều hành không rõ ràng của các vị công chức lãnh đạo cũng gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến kỷ luật hành chính bị buông lỏng. Đề nghị cần chấn chỉnh từ phía bên trong, từ trên xuống dưới, từ những người có trách nhiệm để tiến tới kỷ luật hành chính được tăng cường. Từ đó, kiểm điểm trách nhiệm và hậu quả pháp lý đối với từng cá nhân cán bộ công chức nếu cố ý làm sai, gây thất thóat ngân sách Nhà nước do phải bồi thường lỗi chậm giải quyết khiếu nại.

– Kiểm tra tình hình, kết quả thực hiện các quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc chỉ đạo giải quyết các vụ khiếu kiện phức tạp, kéo dài, có dấu hiệu oan sai hoặc vi phạm pháp luật được dư luận quan tâm; các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật cần tổ chức thực hiện nghiêm túc, vừa tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; việc xem xét xử lý những tổ chức và cán bộ mà qua kiểm tra phát hiện thấy thiếu trách nhiệm, tiêu cực trong giải quyết làm chậm trễ hoặc né tránh việc thi hành các thông báo, kết luận của cấp có thẩm quyền. Cần tăng cường trong việc xem xét xử lý đối với người có hành vi móc nối, kích động khiếu kiện, gây mất trật tự an ninh, vi phạm pháp luật.

  – Ban hành qui trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trên địa bàn xã đảm bảo đúng luật, quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp xã , thủ trưởng các cơ quan chuyên môn trong việc giải quyết và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chú trọng trong việc đối thoại với nhân dân trong xem xét giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo để có kết luận chính xác, tránh oan sai.

   – UBND cấp xã, phường cần rà soát lại các vụ giải quyết tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của mình, những quyết định đã có hiệu lực pháp luật để có kế hoạch xem xét giải quyết và tổ chức thực hiện dứt điểm nhằm hạn chế đơn thư tồn đọng, quyết định có hiệu lực pháp luật không tổ chức thực hiện được.

2.2.2 Giải pháp

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai và ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể:

Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai: Luật Đất đai năm 2013 mới vừa có hiệu lực thi hành, dó đó, cần hướng dẫn thực hiện một cách cụ thể, tránh áp dụng tùy tiện vấn đề thu hồi đất theo hướng khẳng định rõ và rất hạn chế các trường hợp được coi là “thật sự cần thiết” mới được thu hồi, theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, cần làm rõ hơn vai trò của Hội đồng nhân dân như là tiếng nói của cử tri trong việc kiểm soát những quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Về xác định giá đất, cần quy định thành phần bắt buộc trong hội đồng thẩm định giá đất, không chỉ có Ủy ban nhân dân, đại diện ban, ngành liên quan, tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập, mà còn cần tới nhiều thành viên là các chuyên gia cao cấp về định giá đất như các chuyên gia định giá từ các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, khu vực doanh nghiệp định giá, hiệp hội định giá. Với thành phần như vậy mới đảm bảo việc định giá đất có cơ sở khách quan. Về lâu dài, cũng cần tính đến việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai để luật hóa nội dung nói trên cho thực sự phù hợp với những yêu cầu chung và với tình hình thực tế. (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

Hai  là, ban hành Luật Ban hành quyết định hành chính và hướng dẫn xác định rõ các hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai: Để có cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc ban hành các quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai và cũng để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành quyết định hành chính, cần phải có Luật Ban hành quyết định hành chính. Hiện nay, Dự án Luật này đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ XIII (năm 2011- 2016) của Quốc hội. Luật Ban hành quyết định hành chính được ban hành không chỉ thuận lợi cho phía chủ thể quản lý, mà còn tạo thuận lợi cho người dân, vừa bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, vừa bảo đảm tính quyền uy, quyền lực phục tùng, được xem là bản chất của các quan hệ hành chính. Theo đó, Luật phải làm rõ những gì được coi là quyết định hành chính cũng như thẩm quyền, căn cứ ban hành, các nguyên tắc về tính hợp pháp của nội dung và hình thức của quyết định hành chính. Đồng thời, với việc ban hành Luật Ban hành quyết định hành chính, Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao cần phải hướng dẫn xác định rõ các hành vi hành chính là đối tượng của tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai theo những yêu cầu và tính chất đặc thù của hoạt động quản lý này, làm cơ sở cho người dân đưa ra các yêu cầu và chính quyền giải quyết các tranh chấp với người dân.

3.2. Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai

Một là, đổi mới về mô hình tổ chức bộ máy giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai: Cần tăng cường trách nhiệm giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước bằng các biện pháp: Xác định rõ chế độ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý nghiêm những người vi phạm, thiếu trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại. Đồng thời, bảo đảm, tăng cường tính độc lập, khách quan của Tòa án trong việc xét xử các vụ án hành chính, các cấp Tòa án cần được bố trí theo khu vực, vùng, không theo cấp hành chính lãnh thổ nhằm bảo đảm tính độc lập khi xét xử các vụ án hành chính của Tòa án.

Hai là, hoàn thiện về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về tổ chức đối thoại; luật sư tham gia quá trình giải quyết khiếu nại; công khai, minh bạch các tài liệu, chứng cứ của các bên; tăng cường việc “tranh tụng” để phá vỡ tính “khép kín” trong quá trình giải quyết khiếu nại. Đồng thời, quy định thẩm quyền, căn cứ, thủ tục xem xét lại khiếu nại trong một số trường hợp cụ thể khi phát hiện việc giải quyết khiếu nại có vi phạm pháp luật; các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài… Song song với giải pháp đối với trình tự, thủ tục bằng con đường hành chính, cũng cần phải đơn giản, rút gọn một số thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính trong trường hợp vụ việc đơn giản, rõ ràng, có căn cứ để phán quyết và bảo đảm, tăng cường hiệu lực xử vụ án hành chính của Tòa án, thông qua việc nghiên cứu có cơ chế hữu hiệu thi hành bản án hành chính. (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân sự giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai: Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tham mưu giải quyết khiếu nại theo hướng chuyên nghiệp, am hiểu lý luận và thực tiễn, giỏi về áp dụng pháp luật đất đai và các pháp luật có liên quan, có kỹ năng thành thạo khi giải quyết khiếu nại, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước và thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước ở các cấp trong quản lý về đất đai. Đối với Ngành Tòa án, phải từng bước đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong nước hoặc nước ngoài, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và bổ túc kinh nghiệm xét xử. Đồng thời, cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo tổng kết, rút kinh nghiệm, đặc biệt là những khóa bồi dưỡng riêng về công tác xét xử án hành chính, nhất là trong lĩnh vực đất đai.

 

Có thể nói, giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai trong giai đoạn vừa qua đã có những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, kịp thời và đặt trong mối quan hệ phụ thuộc, tác động lẫn nhau như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới tư duy nhận thức, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, bảo đảm cơ sở vật chất cho công tác giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai và các giải pháp hỗ trợ khác. Tuy nhiên, bài viết này chỉ đưa ra một vài giải pháp trao đổi cùng bạn đọc với hy vọng nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai trong giai đoạn hiện nay, hướng tới mục tiêu đảm bảo công lý hành chính, quyền bình đẳng của người dân với cơ quan công quyền, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai)


Trên đây là mẫu chuyên đề thực tập Hoàn Thiện Cơ Chế Pháp Lý Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai được chia sẻ miễn phí , các bạn có thể bấm vào nút tải dưới đây . Tài liệu trên đây có thể chưa đáp ứng được nhu cầu các bạn sinh viên , nếu các bạn có nhu cầu viết bài theo đề tài của mình có thể liên hệ dịch vụ báo cáo thực tập để được hỗ trợ qua SDT/Zalo :0973287149

TẢI FILE MIỄN PHÍ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo